Phạm Văn Thành
Tôi được đưa vào gần bờ. Biển không còn những con sóng cao
bạc đầu nữa, thay vào đó là những con thuyền gỗ sơn trắng xanh
với hai bè càng bằng tre đặc thù của dân đảo Phi. Sóng dạt
nghiêng ngửa hai con thuyền sắt từ trong bờ vươn ra đâm sầm
lại, đầu cột ăn-ten là lá cờ Phi luật tân, dưới hai cửa sổ
buồng hoa tiêu là phần phật hai phiến vải màu vàng đâm ra hai bên
mạn thuyền. Càng đến gần, màu vàng như càng bật phun ra những
tia máu đỏ thẫm, như vẫy vùng trên mặt biển xanh đang bắt đầu
xám. Gần ba trăm con người hốt nhiên lặng người thảng thốt.
Đám trẻ măng sữa đen đủi khựng cảm xúc khi nhìn thấy
những khuôn mặt cha mẹ tự dưng như cứng lại, hầu hết đều lặng lẽ
khóc ; những giọt nước mắt không dễ hiểu đối vơí
tuổi thơ chúng đang mang.
Đàn người thoát chết trước đón đàn người thoát chết
sau ! Đại dương hùng vĩ lùi dần, vùng miền
ngăn cách lùi dần, giọng nam giọng bắc giọng trung … tự nhiên
mất hẳn biên cương, chỉ còn là đàn người xúm xít hỏi han, tay bắt
mặt mừng, sụt sịt vắn dài lẫn trong tiếng đập gió phành phạch
của những lá cờ vàng đang hòa trong tiếng sóng. Họ tự nhiên chia chung một cảm xúc của người vừa biết mình chính
thức mất nước. Họ tìm được đâu đó tình yêu khó diễn giải về một
tổ quốc nơi họ đã sinh ra, một đất nước mà họ ý thức rõ ràng rằng
không còn trở về được nữa. Họ hốt nhiên cảm thấy lá cờ vàng như gói linh hồn quê
hương của họ trong đó; họ mờ mờ nhận ra sự sống, sự tự do mà họ
đang vừa cầm chặt được, nó gắn bó mật thiết với lá cờ vừa trồi
lên từ đại dương cho họ bám vào trong cơn cuồng
lũ đại hồng thủy. Lá cờ ấy, từ đấy được họ gọi là Lá Cờ
Của Tự Do.
Bạn không là chiến binh. Bạn cũng chưa bao giờ thấy những
quan tài chật cứng trên những quân xa vận tải GMC chạy hơ hãi
trên những quốc lộ miền Nam. Cạnh những quan tài phủ cờ vàng là
những người cha mặt khắc khổ im lìm không còn nước mắt. Bạn
chưa trong những đám tang liên tiếp, mà những người thiếu phụ
lăn lộn cả xuống mộ huyệt, khi những tiếng súng vĩnh biệt vừa xé
toang bầu trời, từng xẻng đất hất xuống cỗ quan tài không một vòng
hoa, lá cờ vàng và những tia máu thắm lạnh lùng cuốn lại
trao cho người thiếu phụ đang còn đứa con khát sữa, đang lăn lộn
đòi lại cái mà họ không bao giờ muốn mất : Chồng
họ ! Con họ !
Bạn chưa từng xốn xang, khi đứng trước hàng ngàn ngôi mộ vừa
mới đắp, bóng cờ vàng lặng lẽ xếp thành những hàng dài bát ngát,
chân mộ có những đứa trẻ khóc ngất kêu lên những tiếng
ba ơi lạc giọng; có những người con gái tóc thề
tay chân luống cuống một nhành hoa, lảo đảo bước chân tìm
huyệt mộ người yêu trong trời chiều gió lộng ! Bạn chưa bao
giờ thấy những đôi vai thanh xuân bé nhỏ ấy run lên từng chập giữa
trời trưa xao xác đâu đó tiếng dế rù rì tình tự, như một lời
kinh tận tình, bền bỉ …
Những người đã chết. Họ không chết vì những sự tung hô. Không chết
vì những lý tưởng cao xa huyễn hoặc. Họ chết chỉ
vì họ là một người thanh niên, lớn lên giữa thời binh
lửa, nhà cầm quyền bảo họ tòng quân thì họ tòng quân, không
muốn cũng không được. Họ ngã xuống giữa trận tuyến, chưa chắc
ý thức của họ đã hiểu rằng HỌ LÀ NGƯỜI VỪA CHẾT CHO SỰ TỰ DO CỦA XỨ SỞ. Họ chết bình thường, như hơi thở của một con người, cuốn theo
những đau đớn tột cùng cho những người ở lại.
Những con người ở lại đó, 40 năm sau mới thật sự chín mùi cho một
nhận định về cái chết của những người lính miền Nam đã hy
sinh trong chiến tranh. CÁI GIÁ CỦA TỰ DO ! Bốn mươi năm sau cuộc chiến, con người Việt Nam mới thật
sự ý thức được để cúi đầu lặng lẽ tri ân những người
lính chết trẻ ấy.
Con người ta không ai là không sai lầm !
Con người ta , luôn luôn cần sự sám hối !
Thời gian đằng đẳng đã qua đi gần nửa thế kỷ. Thù hận
ngỡ sẽ dễ tiêu tan, nhưng sự thực lại không diễn ra như vậy. Thế
hệ một chết đi, thế hệ hai vẫn tiếp tục giữ kỹ trong
lòng, thế hệ ba cũng vậy. Tất cả chỉ bởi chúng ta đã thiếu
lòng sám hối chân thực. Người lính miền Bắc đã tận tình
phá nát miền nam, vì những chương giáo lý điên khùng. Đã đến
lúc cần tỉnh táo. Tỉnh táo cho em chúng ta, tỉnh táo cho
con cháu chúng ta.
Chúng ta sẽ mãi mãi lầm lũi trong vô vọng, khi cứ nhất nhất
rằng lá cờ mà chúng ta đã đứng chào, đã hướng trông lên nó mà
chiến đấu trong chiến tranh …là ta sẽ tôn thờ mãi
mãi ! Đã đến lúc ta phải đặt những câu hỏi nghiêm
khắc cho chính chúng ta, rằng lá cờ đó đã từ đâu đến ? Nó có thực
sự là lá cờ giải phóng dân tộc hay không, hay đó chỉ là
một lá cờ đã được vận dụng khôn khéo để lùa dân
ta vào những chiến trường nồi da xáo thịt khốc liệt nhằm phục
vụ cho quyền lợi một đế quốc màu đỏ mang tên cộng sản và mang
quyền lợi cho Trung quốc khổng lồ ?
Các anh chị. Mười năm trước, 20 năm trước, bảo tôi viết
những giòng chữ này tôi sẽ không viết! Không viết vì biết
chắc chắn rằng các anh các chị không bao giờ nghe những gì
chúng tôi nói hay chúng tôi viết ! Bảy mươi năm ! Bốn thế hệ
đã liên tiếp kế tục nhau trưởng thành thì lý lẽ truyền
thông một chiều chắc chắn đã vững chãi như thành đồng ! Nên chúng tôi chỉ còn cách duy nhất là tìm bom đạn để giành
lại quê hương đất nước, được phần nào hay phần nấy, thậm chí không
giành lại được cho dân tộc mảnh đất nào, chúng tôi cũng cam
lòng chết bờ chết bụi bằng cái chết vô danh, cái chết của những
người được các anh các chị gọi là Bọn Phản Động Phá Hoại. Cung cách chết ấy đúng thực là cung cách của người uống nước
giòng Đồng Nai, nuốt hạt cơm giòng sông Hậu để khôn lớn làm người.
…chúng ta đang có một cánh đồng bát ngát của tri thức
mà ai cũng có thể mở được nó ra, tận dụng và hưởng thụ. Vì cánh
đồng tri thức bát ngát ấy, hôm nay tôi dám viết những
giòng chữ này, nhân danh một người chiến binh chống cộng sản không quân phục
còn sót lại của giai đoạn 1980, trân trọng gởi đến các anh các
chị lời chân thành mong được nhìn thấy sự sám hối cao cả của
các anh các chị, như chúng tôi hằng luôn sám hối vì đã để toàn
vẹn đất nước rơi vào tay các anh các chị; vì đã để lớp
đàn em tươi thắm phải giáp mũ kiếm đao bút sách đâm sầm
vào cuộc chiến đấu đầy cạm bẫy và muôn vàn sự đểu giả.
Sự sám hối ấy không phải với chúng tôi, không phải cho chúng tôi
hay cho những người lính miền Nam đã chết. Chúng ta đã đầu hai thứ
tóc, mặn nhạt đắng cay ắt rằng đã dôi dư để không còn muốn hơn
thua với nhau nữa làm gì. Chúng ta sám hối vì đàn em
chúng ta, vì con cháu chúng ta, vì thế hệ tương lai bắt buộc chúng
ta phải Sám Hối. Vì chỉ có thật lòng sám hối, chúng ta mới kết tụ
lại được cùng nhau, mới bảo vệ được giang sơn đang bấp
bênh bên bờ vực tử sinh này.
Hà Nội 1945
Hãy can trường vượt qua chính mình. Lá cờ vàng không có tội tình chi cả. Lá cờ ấy không phải của ông Diệm hay ông Nhu ông Thiệu. Lá
cờ ấy là truyền thừa từ những vị vua anh hùng dân tộc Thành Thái -
Duy Tân ... đã tung bay ngay tại thủ đô Hà nội, ngay khi
Đệ Nhị Thế Chiến chấm dứt, đế quốc Nhật trao trả độc lập
cho Việt Nam với đại diện chính thức là chính phủ Trần Trọng Kim.
Lá cờ ấy hiền lành và đơn độc, đã bị đàn áp dã man
bởi chủ nghĩa quốc tế cộng sản cominter để sau đó trương lá cờ
đỏ đậm đà bản sắc Trung quốc lên, xô đẩy ba bốn thế
hệ thanh niên Việt nam vào chảo lửa chiến tranh đúng
với phương châm "Đánh Cho Đến Người Việt Nam Cuối Cùng"!
Vì danh dự của tiền nhân. Vì danh dự của con cháu chúng ta.
Chúng ta phải chiến đấu. Phải tìm lại với nhau để
chiến đấu.
phạmvănthành
paris 30.10.2014
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét