Hà Sĩ
Phu
tka23
post
Nhà
nghiên cứu Nguyễn Khắc
Mai đã “đóng
đanh” bức Công hàm Phạm Văn Đồng 1958 bằng những chứng cứ trên giấy trắng mực
đen như sau:
- Thực
chất của công hàm đó là “công khai tuyên
bố thừa nhận chủ quyền của Trung cộng ở các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, là
“rất tai hại, rất phản động”, “là một tai họa cho
Việt Nam”, là “có tác hại phản quốc phải hủy
bỏ”.
- Đó là một CÔNG HÀM cấp nhà nước (hình bên), giữa
hai đại diện cao nhất của hai chính phủ, vì thế không thể tùy tiện hạ thấp tầm
quan trọng của công hàm này thành một “công thư”,
coi văn bản này “không có giá
trị, vì anh không thể đem cho cái không phải quyền của anh”. Tác giả cho
thấy cách lập luận nhằm hủy bỏ tầm quan trọng của một Công hàm như vậy là “hời hợt”,
chỉ là “cãi chày cãi
cối”, là “vô trách
nhiệm”!
- Vì vậy.
để hủy bỏ được công hàm tai hại
ấy, tác giả thấy phải đưa ra một giải pháp khác là “Quốc Hội mới
của VN phải phủ quyết cái công thư phản động
ấy”.
Đấy là
những kết luận dứt khoát dựa trên những chứng cứ không thể chối cãi. Nhưng một
khi đã công nhận những kết luận ấy không thể không tiếp tục đặt ra những câu hỏi
khác và bàn thêm về hai cách giải thoát khỏi Công hàm 1958 ấy cho thật cặn
kẽ.
1/ Một
Công hàm đã bán chủ quyền, đã “phản động, phản quốc” như vậy thì tác giả của Công hàm ấy, cá nhân cũng như tập
thể, cần được phán xét ra sao, chịu trách nhiệm thế nào với hậu thế, với
sự tồn vong của đất nước? Bài học rút ra là gì?
2/ Thoát
khỏi Công hàm 1958 bằng cách nào?
Mọi người
đều thấy Công hàm 1958 là sự ràng buộc nguy hiểm nên đều thấy phải tìm cách thoát khỏi Công hàm
đó. Nhưng tùy thuộc mục đích ưu tiên bảo vệ đất nước hay ưu tiên bảo vệ
chế độ mà phát sinh hai kiểu thoát hiểm.
- Muốn
bảo vệ cái nền móng, bảo vệ thể chế, sợ dứt dây động rừng thì lái cho thiên hạ
quên đi tầm quan trọng của Công hàm đó, hạ thấp tính chính thống và tính pháp lý
của Công hàm, coi Công hàm là thứ chẳng đáng quan tâm. Song ngụy biện kiểu này chỉ để tự che
mắt mình và che mắt dân, chứ không thể cãi được với kẻ xâm lược tinh quái đã
“nắm đằng chuôi”, và cũng không thuyết phục được công lý quốc tế khách
quan. Thật vậy, ai có thể tưởng tượng một Thủ tướng lại dễ dãi đến mức
quyết định “cho” nước láng giềng một phần lãnh thổ của Tổ quốc chỉ vì nghĩ rằng
phần lãnh thổ ấy đang thuộc phần quản lý của đồng bào mình ở miền Nam thì cứ
việc “cho” cũng chẳng hại gì? Trong khi vị Thủ tướng này luôn nhắc lời H C M,
người chịu trách nhiệm cao nhất bấy giờ, rằng “Tổ quốc Việt Nam
là một,… chân lý ấy không bao giờ thay đổi” kia mà? Thêm nữa, đã tâm
niệm “Tổ quốc
Việt Nam là một” thì khi Trung Cộng chiếm mất Hoàng Sa năm 1974 phải hiểu
là một phần Tổ quốc của mình bị xâm lược (dù đồng bào nửa nước bên kia đang quản
lý), sao không có một lời phản đối bọn xâm lược. lại phấn khởi vui mừng vì một
vùng biển đảo của Tổ quốc đã vào tay nước bạn để nước bạn giữ cho? Thật tiếu lâm, khôi hài đến chảy nước
mắt.
- Tóm lại
là cố gắng vô hiệu Công hàm 1958 kiểu này không có giá trị thực tế gì, rất dễ bị
đối phương bẻ gãy. Nếu kiện ra Liên Hiệp Quốc, chỉ một Công hàm Phạm Văn Đồng đủ làm
cho Việt Nam đuối lý (chưa cần đến những hiệp ước nhượng bộ, đầu hàng
về sau mà Trung cộng đã thủ sẵn trong tay). Khi Trung cộng đã có được tính
pháp lý chính danh của Công hàm 1958 thì mặc nhiên đã vô hiệu được tất cả những
chứng cứ lịch sử trước 1958 và cả những tranh cãi sau 1958 đến nay. Chính phủ
Việt Nam cũng biết vậy nên cứ trì hoãn không dám kiện Trung cộng , viện lý do
rất “đạo đức” là sợ làm đổ mất “bát nước đầy” (cái bát nước hữu nghị mà phía
Trung cộng đã phóng uế vào!). Kiểu chống đỡ lúng túng này chỉ bởi vì ưu tiên bảo vệ chế độ, bắt
Tổ quốc phải hy sinh cho chế độ.
-
Vậy phải thoát khỏi Công hàm 1958 bằng
cách khác, “bằng một tuyên
bố công khai có giá trị pháp lý cao hơn” ví dụ “Quốc hội mới
của VN phải phủ quyết cái công thư phản động ấy” như bác Nguyễn Khắc Mai đề
nghị. Giải pháp này có hiệu quả đến đâu? Vấn đề là một chính phủ với tư cách hậu
duệ kế tục của chính phủ Phạm Văn Đồng – Hồ Chí Minh thì đương nhiên có trách
nhiệm thi hành những tuyên bố của chính phủ hợp pháp trước đây đã ký, Trung cộng
có quyền đòi hỏi theo luật như vậy, điều Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã ký thì
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có trách nhiệm thực hiện, một khi ông Thủ tướng sau đã
nguyện kế tục sự nghiệp của ông Thủ tướng trước. Chỉ còn một cách: Muốn
khước từ thi hành Công hàm Phạm Văn Đồng 1958 buộc Chính quyền Việt Nam hiện nay phải nhân danh nhân dân Việt Nam
tuyên bố khước từ và tẩy chay những sai lầm “phản động, phản quốc” của
chế độ cũ, lập chế độ mới. Liệu cái Quốc hội Cộng sản hiện nay có dám
cắt đứt cái mạch máu huyết thống này để kiến tạo một quyết định thoát Cựu, thoát
Trung, ích nước lợi nhà như vậy không?
Khó khăn
cốt lõi vẫn ở chỗ: Muốn thoát Hán, mà bước một là thoát
khỏi Công hàm phản quốc 1958, chỉ có cách phải giải Cộng, thoát
Cộng!
3/ Thoát
Cộng được lợi những gì?
Trong
thực tiễn Việt Nam hiện nay nói thoát
Cựu, thoát
Cộng hay “vượt qua chính
mình” thực ra cùng một nghĩa, tuy “vượt qua chính
mình” là cách nói dễ nghe hơn, xin được dùng chữ thoát
Cộng vì đúng thực chất nhất.
Nếu giữ
chủ nghĩa Cộng sản thì phải gánh chịu những tai hại gì?
- Toàn bộ kế hoạch
“đô hộ Việt Nam kiểu mới” mấy chục năm nay của Trung Cộng được thiết kế trên hai
chữ Cộng sản, giữ cái nền Cộng sản là giúp cho mưu
đồ Hán hóa có một ưu thế ở tầm chiến lược.
- Giữ Cộng sản thì Việt Nam bị ràng buộc
bởi quá khứ đầy nợ nần và lầm lỡ, khó thoát ra, chẳng hạn như công hàm
1958, cam kết Thành Đô, các ký kết thời Lê Khả Phiêu, thời Nông Đức Mạnh, thời
Nguyễn Phú Trọng…
- Còn giữ Cộng sản thì quan hệ ràng buộc
Trung-Việt như quan hệ giữa “thú dữ và con mồi” cứ thít chặt lại, trong khi các
khối đoàn kết để kháng cự thì bị lỏng ra, ví dụ giới lãnh đạo thì bị chia thành
phái thân Tàu và nhóm lợi ích, lãnh đạo thì ngày càng đối lập với dân, quốc nội
với hải ngoại vẫn còn cách biệt, các liên kết Việt Mỹ, Việt Âu, Việt ASEAN… đều
bị yếu tố Cộng sản hạn chế một phần, không thể thanh thoát… Như thế lấy đâu ra
sức mạnh?
Trái lại,
chỉ cần thoát Cộng thì tất cả những trở ngại trên sẽ được giải tỏa, đặc biệt là
toàn bộ dân Việt khắp nơi khắp chốn tự nhiên sẽ ôm lấy nhau mà reo hò, không cần
bất cứ một nghị quyết “hòa hợp hòa giải” nào hết, niềm mơ ước một hội nghị Diên
Hồng từ đó mới có cơ sở để mở ra, nếu không thì Diên Hồng mãi mãi chỉ là một lời
hô hào suông, không có thực chất.
4/ Thoát
Cộng dễ hay khó?
- Sẽ quá
khó, quá gay go, nếu Đảng Cộng sản cứ ôm lấy vinh quang quá khứ và lợi quyền
hiện tại khiến cho Đảng ngày càng xa dân, đối lập với dân, mỗi động tác dân chủ
hóa, dẫu còn ở mức độ “cải lương” thôi cũng
đã là một cuộc cọ xát nảy lửa, đã xảy ra bắt bớ cầm tù, nói gì đến sự đổi mới
thể chế, đổi mới hệ thống?
- Nhưng
không, sẽ vô cùng dễ dàng nếu Đảng biết “tự vượt qua mình”, lấy lợi ích dân tộc
trên hết mà vượt trên quá khứ, chuyển sang nền dân chủ đa nguyên như các
nước tiến bộ thì Đảng có mất chỉ mất cái danh hão mà được tất cả. Chẳng
những không ai chỉ trích quá khứ nữa làm gì, mà các vị cầm quyền còn được nhân
dân yêu quý và biết ơn thật sự, không còn tình trạng “thấy
mặt là tắt tivi” như bấy lâu nay. Về tinh thần đã thanh thỏa như vậy,
về vật chất cũng được bảo đảm ; có phải nhân dân đã từng bắn tiếng rằng nếu
người lãnh đạo biết đổi mới để cứu nước, thoát Hán thì dân sẵn sàng độ lượng cho
tận hưởng bổng lộc đấy thôi? Triển vọng xán lạn ấy có thể lắm chứ, sao lại
không?
Quả bóng cứu dân
cứu nước hiện đang trong chân người cầm quyền, dân rất mong mỏi những người
cầm quyền biết giải quyết thông minh, khôn ngoan, ích nước lợi nhà. Chỉ trừ
trường hợp chẳng may, đợi mãi, vô vọng (chẳng hạn như tiền đạo họ
Phùng(quang Thanh) cứ sút mãi bóng vào lưới nhà) thì tất nhiên dân phải đứng
dậy giành quả bóng về chân mình mà hành xữ theo đúng ý nguyện của dân, để “nâng thuyền hay
lật thuyền” như quy luật của muôn đời mà Nguyễn Trãi đã diễn tả bằng một
hình ảnh lưu danh bất hủ…
H.S.P. (2-6-2014)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét