Các Chức sắc Tôn giáo Việt
Nam
Bản Lên tiếng về Pháp lệnh
tôn giáo năm 2004
và Nghị định áp dụng Pháp
lệnh năm 2012
Kính
gởi
- Quý Hữu trách trong Chính
phủ và Quốc hội Việt Nam
- Quý Chức sắc, tu sĩ và
tín đồ Cao Đài, Công giáo, Phật giáo, Phật giáo Hòa Hảo và Tin
Lành.
- Quý Nhân sĩ và Đồng bào
Việt Nam
- Quý Chính phủ dân chủ
khắp thế giới
- Quý Hội đồng nhân quyền
Liên Hiệp Quốc và Quý Tổ chức nhân quyền quốc tế.
- Quý Cơ quan truyền thông
quốc tế và quốc nội.
Các Chức Sắc Tôn Giáo Việt
Nam
1- Xét rằng: Do thấm nhuần chủ nghĩa duy vật vô
thần Các Mác (cho rằng tôn giáo là thuốc phiện mê hoặc nhân dân, nguy hiểm cho
xã hội) và do chủ trương quyền lực toàn trị độc tài (không để bất cứ thực thể
nào trong xã hội vượt thoát sự kiểm soát của mình và không để bất cứ quy tắc
luật lệ nào đứng trên quy tắc luật lệ của mình), đảng và chế độ Cộng sản luôn
coi tôn giáo -các lực lượng tinh thần- là kẻ thù, kẻ thù số một, cần phải tiêu
diệt. Để thực hiện việc này, nhà cầm quyền CS dùng bạo lực vũ khí và bạo lực
hành chánh. Hai biện pháp này luôn phối hợp với nhau cũng như tăng giảm tùy lúc,
tùy nơi và tùy người. Bạo lực hành chánh hiện thời được thể hiện qua Pháp lệnh
tín ngưỡng tôn giáo số 21 do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành ngày 18-06-2004
và Nghị định áp dụng Pháp lệnh số 92 (cập nhật Nghị định số 22 năm 2005) do Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng ban hành ngày 09-11-2012.
2- Xét rằng: Rút kinh nghiệm áp dụng Sắc lệnh tôn
giáo số 234 (ngày 14-06-1955) của ông Hồ Chí Minh, Nghị quyết tôn giáo số 297
(ngày 11-11-1997) của ông Phạm Văn Đồng và Nghị định số 22 (ngày 01-03-2005) của
ông Phan Văn Khải, Pháp lệnh 21 và Nghị định 92 trở nên tinh vi hơn và siết chặt
hơn trong việc kiểm soát các giáo hội. Cụ thể, cả hai văn kiện pháp lý này muốn
khống chế, kềm tỏa 5 phương diện hay 5 yếu tố của tôn giáo là quy chế pháp lý,
nhân sự, hoạt động, tài sản và quan hệ quốc tế.
a- Về quy chế pháp lý, cho đến nay nhà cầm quyền
CS không cho tôn giáo lẫn tổ chức thuộc tôn giáo chính truyền nào được có tư
cách pháp nhân như mọi tổ chức xã hội - chính trị khác tại VN
(trong cả hai văn kiện
chẳng hề thấy một chữ "pháp nhân" nào). Điều này gây rất nhiều khó khăn về pháp
lý cho các Giáo hội và các tổ chức của Giáo hội trong các giao dịch dân sự (mua
bán, mở tài khoản ở ngân hàng). Đất
đai, nhà cửa, tiền bạc mà các tôn giáo và tổ chức tôn giáo đang sở hữu và sử dụng phải đứng tên một cá
nhân và điều này dẫn đến nguy cơ bị
chiếm đoạt (bởi nhà nước hay bởi một người
liên hệ), vì trên danh nghĩa các tài
sản này chỉ là của
cá nhân chứ không phải của tập thể. Những hoạt động xã hội của
các chức sắc do đó cũng bị loại trừ
hay giới
hạn.
Không công nhận tư cách pháp nhân,
nhà cầm quyền chỉ cho các tôn giáo và các tổ chức thuộc tôn giáo được đăng ký,
nghĩa là xin công nhận để được hoạt động với những điều kiện rất khắt khe (Đ.
5-8 NĐ 92). Và sự xuất hiện chính danh lẫn tồn tại hợp pháp của một tôn giáo
hoàn toàn nằm trong tay nhà cầm quyền vô thần. Hiện thời, nhiều Giáo hội như
Phật giáo VN Thống nhất, Phật giáo Hòa Hảo Thuần túy, Cao Đài Bảo thủ Chơn
truyền và nhiều Hệ phái Tin lành như Mennonite hoặc Lutheran VN bị đặt ra ngoài
vòng pháp luật, do đó bị bách hại dữ dội. Trong lúc đó, nhà cầm quyền lại nặn ra
nhiều giáo hội quốc doanh hoặc tổ chức quốc doanh để thay thế hay lũng đoạn các
Giáo hội chính truyền hòng lừa gạt nhân dân và quốc tế, dùng đạo chống lại
đạo.
b- Về nhân sự (tín đồ, tu sĩ, chức sắc). Trước
hết, mọi ai có đạo đều phải ghi rõ tôn giáo trong Chứng minh nhân dân (các nước
trên thế giới không có lệ này). Điều này đã và đang gây ra lắm kỳ thị. Rồi không
một tín đồ của đạo nào được giữ những chức vụ lãnh đạo trong bộ máy Nhà nước,
công an, quân đội, học đường, công ty xí nghiệp quốc doanh... Rõ ràng người có
đạo là công dân hạng hai. Việc này đi ngược với Điều 29 Dự thảo sửa đổi
HP.
Về tu sĩ, PL đ. 21 đòi buộc người phụ trách tu viện khi
nhận người vào tu có trách nhiệm đăng ký với Uỷ ban nhân dân cấp xã, và NĐ 92 đ.
13 còn buộc chờ cơ
quan nhà nước có thẩm quyền trả lời chấp thuận. Nghĩa là nhà cầm quyền có quyền
từ chối cho một người vào tu hay từ chối cho một dòng tu hoạt động.
Về chức sắc (x. PL đ. 3-10), NĐ 92 đ. 19 nói rõ: "Tổ chức tôn giáo [tức Giáo hội] thực hiện việc phong chức,
phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử các chức danh này có trách nhiệm gửi bản
đăng ký [tức xin phép] đến cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo".
Nghĩa là việc bổ nhiệm các chức sắc từ lớn tới nhỏ đều bị nhà nước mọi cấp xen
vào, cốt chọn cho được người họ hoàn toàn ưng ý hay người họ không phải lo
ngại.
Trước đó, khi
được đào tạo thành chức sắc trong các học viện, học viên buộc phải học về lịch
sử và pháp luật VN như các môn chính khoá (PL đ. 24. NĐ 92 đ. 14-2). Thực ra đấy
là học về chủ nghĩa, chế độ và đảng CS, do chính giáo sư nhà nước dạy. Đây là
hình thức nhồi sọ những ứng viên chức sắc để sau này họ trở thành những lãnh đạo
tinh thần ngoan ngoãn với chế độ và dễ thỏa hiệp với nhà cầm quyền.
c- Về hoạt động của tôn giáo, PL (từ điều 17 đến
điều 35) phân ra 14 loại. Theo NĐ 92 từ đ. 5 đến đ. 41, tất cả các loại hoạt
động này đều phải đăng ký (nghĩa là xin phép) và phải chờ nhà nước chấp thuận
mới được làm. Nghĩa là người dân buộc phải xin phép nhưng nhà nước không buộc
phải cho phép. Việc
cho phép hay không tùy vào nhiều điều kiện, nhất là tùy thái độ “chính trị” của
cá nhân hay cộng đoàn làm đơn xin phép… Trong PL 21 và NĐ 92, người ta thấy từ
“đăng ký” được sử dụng 18 và 74 lần, từ “quy định” được sử dụng 37 và 69 lần, từ
“quy định của pháp luật” được sử dụng 14 và 9 lần, từ “không chấp thuận phải nêu
rõ lý do” 18 lần (trong NĐ).
Nếu tóm tắt các hoạt động trên thành
2 loại: 1- Các hoạt động thuần túy tôn giáo và nội bộ của Giáo hội; 2- Các hoạt
động của Giáo hội liên quan đến xã hội, thì từ 1975 đến nay, đã có vô số vi phạm
của nhà cầm quyền đối với các hoạt động đó. Và chính vì tiến hành nhiều sinh
hoạt quan trọng và cần thiết cho đạo mà nhiều chức sắc, tu sĩ, tín đồ thuộc mọi
tôn giáo đã bị hăm dọa, sách nhiễu, hành hung, quản chế hay cầm tù. Đó là chưa
kể nhiều người còn bị như thế chỉ vì đấu tranh cho tự do, nhân quyền, dân
chủ.
Ngoài các hoạt động phải xin phép trên đây, còn có những
hoạt động thuộc quyền con người và quyền công dân mà các Giáo hội bị cấm đoán.
Chẳng hạn không được
quyền có nhà xuất bản riêng, đài phát thanh phát hình riêng, trang mạng internet
riêng, hay có giờ phát thanh phát hình trên các phương tiện truyền thông của nhà
nước (xây dựng do tiền đóng thuế của nhân dân, trong đó có tín đồ), và như thế
là không được truyền bá giáo lý cách công khai cho mọi người để góp phân canh
tân xã hội. Rồi không được quyền tham gia vào việc giáo dục giới trẻ từ cấp tiểu
học đến đại học với trường sở và chuyên viên của riêng mình, dưới sự điều hành
của chính mình, không được quyền tham gia vào việc cứu tế xã hội bằng cách thành
lập và điều hành từ viện cô nhi đến viện dưỡng lão, từ bệnh xá đến bệnh viện.
d- Về tài sản, PL đ. 26
nói: "Tài sản hợp pháp thuộc cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo
hộ, nghiêm cấm việc xâm phạm tài sản đó". Thế nhưng, từ trong Hiến pháp, đã
có chủ trương đất đai do nhà nước làm chủ sở hữu, rồi trong nhiều văn bản pháp
luật, lại có những quy định vô lý liên quan đến tài sản của các Giáo hội. Như
ngày 31-12-2008, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ra Chỉ thị số 1940 về nhà, đất liên
quan đến tôn giáo, hạ lệnh cho các địa phương nuốt trọn mọi tài sản của các tôn
giáo mà đảng CS đã cướp đoạt từ nhiều thập niên trước dưới chiêu bài "quản lý
nhà đất và cải tạo xã hội chủ nghĩa". Trong thực tế, từ 1954 tới nay, vô vàn vô
số tài sản (điện thờ, đất đai, cơ sở, thậm chí vàng bạc...) của các tôn giáo đã
bị nhà cầm quyền CS tước đoạt. Ngoài ra, để khống chế sự phát triển của tôn giáo, nhà cầm quyền
không cho phép các Giáo hội trực tiếp mua hoặc nhận biếu tặng đất đai hay cơ
sở.
e- Về quan hệ quốc tế của tổ chức tôn giáo, tín đồ, tu sĩ, chức
sắc thì được đề cập trong PL 21 Điều 34-37 và NĐ 92 Điều 37-41. Cũng lại chuyện
tất cả đều phải xin phép và nhưng nhà cầm quyền không buộc phải cho phép. Ví dụ
việc Tòa thánh
Vatican phong chức giám mục cho một số linh mục Công giáo VN thì phải được sự
ưng thuận của Hà Nội mà nhiều khi rất gian nan và GH không thể chọn được người
vừa ý. Ngoài ra, mọi chức sắc được phép ra nước ngoài (du lịch, du học hay du
khảo) đều phải gặp công an tôn giáo trước khi đi để nghe bảo ban mọi chuyện “nên
làm” và “không nên làm” ở hải ngoại (như cấm gặp gỡ cá nhân hay tổ chức nào đó,
cấm tuyên truyền nói xấu nhà nước và chế độ...) Từ ngày mở cửa biên giới, cho
phép công dân ra ngoại quốc, nhà cầm quyền đã kiểm soát mối liên lạc của các
Giáo hội với nước ngoài có khi rất trắng trợn. Nhiều chức sắc “có vấn đề với chế
độ” (như đã đấu tranh cho tự do tôn giáo hay dân chủ nhân quyền) thì bị gây
nhiều khó dễ hay thậm chí bị cản trở xuất ngoại (hoặc ngược lại đi vào trong
nước nếu đang ở nước ngoài). Nhiều nhóm thiện nguyện từ hải ngoại cũng bị cấm
cản vào phục vụ tại một địa phương mà chức sắc tôn giáo coi sóc nơi đó đang bị
ghi vào sổ đen. Nhà cầm quyền còn tìm cách cho tay chân len lỏi vào các cộng
đoàn tôn giáo người Việt ở hải ngoại để lũng đoạn ngõ hầu họ chống lại đồng đạo
mình ở quê hương. Đặc biệt nhà cầm quyền đã nhiều lần yêu cầu Tòa thánh Vatican
có biện pháp với những chức sắc hoặc cộng đoàn Công giáo VN bị cho là “chống đối
chế độ” trong lúc họ thực sự bênh vực công lý nhân quyền hay đòi hỏi quyền tự do
tôn giáo.
Từ những phân tích trên, Các Chức
sắc Tôn giáo Việt Nam tuyên bố:
1- PL 21 và NĐ 92 là những phương tiện pháp lý mà nhà
cầm quyền Cộng sản thay vì dùng phục vụ quyền tự do tôn giáo của công dân như HP
1992 quy định, lại
sử dụng để
- duy trì cơ chế Xin-Cho
đối với tôn giáo (một cơ chế mà họ đã bỏ trong nhiều lãnh vực khác) ngõ hầu tôn
giáo luôn lệ thuộc chặt chẽ vào chế độ.
- biến các Giáo hội và các
tổ chức trong Giáo hội hoặc thành công cụ phục vụ tận tình chế độ hoặc thành kẻ
phải nín câm trước những vấn đề của đất nước và xã hội ngõ hầu được yên thân.
- ngăn cản các Giáo hội và
các tổ chức trong Giáo hội trở thành những xã hội dân sự đúng nghĩa (độc lập với
nhà cầm quyền) vốn là nhu cầu ngày càng cấp thiết tại VN, để xây dựng một quốc
gia dân chủ.
2- Các tôn giáo tự bản chất là những
xã hội dân sự và mọi tín hữu đều là những công dân bình đẳng. Họ có những quyền
và nghĩa vụ như mọi xã hội dân sự và mọi công dân khác. Những quyền và nghĩa vụ
này -trên nguyên tắc- được xác định trong Hiến pháp và các bản văn dưới luật
hình thành theo tinh thần tự do dân chủ, phù hợp với các Công ước quốc tế về
nhân quyền. Thành ra không thể có và không được có những luật riêng cho tôn
giáo. Như thế là đàn áp và kỳ thị! Chúng tôi thấy mình không có bổn phận chấp
hành những luật lệ như thế
3- Tự do tôn giáo không hệ tại ở
việc được xây dựng các nơi thờ tự to lớn nguy nga, tổ chức các lễ hội hoành
tráng đông đảo, chức sắc tu sĩ tín đồ được xuất ngoại dễ dàng thoải mái (thật ra
điều này chỉ đúng với những nơi và những người không “có vấn đề” với chế độ). Tự
do tôn giáo hệ tại việc các Giáo hội và tổ chức Giáo hội phải được công nhận
(chứ không cấp ban) tư cách pháp nhân một khi họ đã đăng ký (không theo nghĩa
xin phép); phải được tự do trong sinh hoạt và độc lập trong tổ chức; phải được
truyền bá giáo lý trong và ngoài nơi thờ tự, trong và ngoài cộng đoàn tôn giáo,
ra xã hội và trên mọi phương tiện truyền thông (sách, báo, đài); phải được tham
gia vào việc giáo dục giới trẻ ở mọi cấp học; phải được tổ chức đầy đủ các hoạt
động cứu tế xã hội; phải được tham gia đầy đủ (qua các tín đồ) vào việc quản lý
điều hành đất nước.
4- Nhà cầm quyền VN -cách lập tức và
vô điều kiện- phải thả mọi chức sắc, tu sĩ, tín đồ đang bị cầm tù vì đã đấu
tranh cho tự do tôn giáo hay dân chủ nhân quyền; phải trả lại mọi tài sản tinh
thần là tự do và độc lập cho mọi tôn giáo; phải trả lại mọi tài sản vật chất là
đất đai, cơ sở cho mọi Giáo hội. Để mọi Giáo hội có thể góp phần vào việc canh
tân đất nước và phục vụ Đồng bào.
Làm tại VN ngày 04 tháng 10 năm
2013
Các Chức sắc đồng ký
tên
Đồng ký tên
- Cụ Lê
Quang Liêm, Hội
trưởng PGHH
(đt: 0199.243.2593)
- Hòa thượng Thích Không
Tánh, Phật giáo (đt: 0165.6789.881)
- Linh mục
Phêrô Phan Văn
Lợi, Công giáo
(đt: 0984.236.371)
- Linh mục
Giuse Đinh
Hữu
Thoại, Công giáo
(đt: 0935.569.205)
- Linh mục
Antôn Lê Ngọc
Thanh, Công giáo (đt:
0993.598.820)
- Chánh trị
sự
Hứa Phi, Cao
Đài giáo (đt: 0163.3273.240)
- Chánh trị
sự
Nguyễn Kim Lân,
Cao Đài giáo (đt: 0988.971.117)
- Chánh trị
sự
Nguyễn
Bạch
Phụng, Cao
Đài giáo (đt: 0988.477.719)
- Mục
sư
Nguyễn Hoàng Hoa,
Tin Lành (đt:
0949.275.827)
- Mục
sư
Hồ
Hữu Hoàng, Tin
Lành (đt:
0902.761.057)
- Mục
sư
Nguyễn
Mạnh Hùng, Tin Lành
(đt: 0906.342.908)
- Ông Phan Tấn
Hòa, PGHH (đt:
0162.630.1082)
- Ông Trần
Nguyên Hưởn, PGHH
(đt: 0167.341.0139)
- Mục
sư
Nguyễn Trung Tôn,
Tin Lành (đt: 0162.838.
7716)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét