2013 : sắp hết đời sa-tăng quỉ sứ
2014 : quỉ sứ nhăn răng !
CỜ MÁU THÀNH GIẺ RÁCH
Thời gian và Thế sự xoay vần
Chuột sa chĩnh gạo nằm chơi (2008)
Trâu cày ngốc lại chào đời bước ra (2009)
Hùm gầm khắp nẻo gần xa (2010)
Mèo kêu rợn tiếng quỷ ma tơi bời (2011)
Rồng bay năm vẻ sáng ngời (2012)
Trâu cày ngốc lại chào đời bước ra (2009)
Hùm gầm khắp nẻo gần xa (2010)
Mèo kêu rợn tiếng quỷ ma tơi bời (2011)
Rồng bay năm vẻ sáng ngời (2012)
Điều
tiên đoán của cụ Trạng này trùng hợp với lời tiên đoán của chiêm tinh gia Trần
Dần (Hoa Kỳ).
Sơ lược tiểu sử Trạng Trình NGUYỄN BỈNH KHIÊM (1491 -
1585)
Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491
bis 1585) sinh năm Tân hợi đời vua Lê Thánh Tông Hồng Ðức thứ 22 tại làng Trung
Am, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương (nay thuộc xã Lý Học, huyện Vĩnh
Bảo, Hải Phòng) Thân phụ của ông là giám sinh Nguyễn Văn Định, nổi tiếng hay chữ
nhưng chưa hiển đạt trong đường khoa cử. Thân mẫu là bà Nhữ Thị Thục, con gái út
của Thượng thư bộ hộ Nhữ Văn Lan triều Lê Thánh Tông. Quê ông ở làng An Tử Hạ,
huyện Tiên Minh, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương (nay là thôn Nam Tử, xã Kiến
Thiết, huyện Tiên Lãng, Hải Phòng.
Theo tài liệu để lại
bà Nhữ Thị Thục là bậc nữ lưu tài hoa giỏi văn chương và tài học về lý số. Biết
trước những gì có thể xảy ra và mộng lớn con cái nên danh phận. Nguyễn Bỉnh
Khiêm lúc trẻ học với Lương Ðắc Bằng từng là đại thần giữ chức Thượng thư dưới
triều Lê sơ, ông dâng những điều trần nhằm ổn định triều chính không được vua Lê
thi hành, Lương Đắc Bằng cáo quan về quê sống đời dạy học (1509).
Nguyễn Bỉnh Khiêm
thông minh chăm chỉ trở thành học trò xuất sắc. Bởi vậy trước khi qua đời, Bảng
nhãn Lương Đắc Bằng trao cho Nguyễn Bỉnh Khiêm bộ sách quý về Dịch học (Chu
Dịch) là Thái Ất thần kinh, từ đó ông tinh thông về lý học và tướng số, nghiên
cứu về lý số với thiên tài “thần thông” có khả năng siêu quần, quán chúng về
thấu thị, thần giao cách cảm, Nguyễn Bỉnh Khiêm bỏ qua 9 kỳ đại khoa (trong đó
có 6 khoa thi dưới triều Lê sơ). Ngay cả khi nhà Mạc lên thay nhà Lê sơ (1527),
xã hội dần đi vào ổn định nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng không vội vã ra ứng thí
(ông không tham dự 2 khoa thi đầu tiên dưới triều Mạc).
Tới năm Đại Chính thứ
sáu (1535) đời Mạc Thái Tông (Mạc Đăng Doanh) thịnh trị vương đạo nhất triều Mạc
(1527-1592), ông quyết định đi thi và đậu ngay Trạng Nguyên. Năm ấy ông đã 45
tuổi. được bổ nhiệm làm Đông Các hiệu thư rồi sau giữ nhiều chức vụ khác nhau
như Tả Thị Lang Bộ Hình, Tả Thị Lang Bộ Lại, kiêm Đông Các Đại Học, làm quan
được 8 năm, ông dâng sớ hạch tội 18 lộng thần vua không nghe. Ông cáo quan năm
1542 về vườn, lập Bạch Vân Am và hiệu Bạch Vân Cư Sĩ mở trường dạy học cạnh sông
Hàn Giang còn có tên Tuyết Giang, các môn sinh tôn ông là “Tuyết Giang phu tử”.
môn sinh của ông có nhiều người hiển đạt sau này như Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu
Khánh, Trương Thời Cử, Đinh Thời Trung, Hàn Giang cư sĩ Nguyễn Văn Chính (con
trai cả của ông)… thơ Trạng Trình với triết lý của Thái Ất là nguồn tri thứchữu
thể, về đời sống nhân sinh với càng khôn trong vũ trụ. Thái Ất còn gọi là Lý
Thiên, Lý Địa và Lý nhân.
Ngư ông bất ngộ Ðào Nguyên
khách
Khởi thức hưng vong
thế cổ kim
Nhàn trung hoa thảo
túc cung xuân
Tà dương độc lập đô
vô sự
Ta dại ta tìm nơi
vắng vẻ
Người khôn người
đến chốn lao xao
Thu ăn măng trúc,
đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ
tắm ao…
Dù Nguyễn Bỉnh Khiêm không còn làm quan,
nhưng vua Mạc Phúc Hải phong cho ông tước Trình Nguyên Hầu vào năm Giáp thìn
(1544), ngụ ý đề cao ông có công khơi nguồn ngành lý học, sau đó được thăng chức
Thượng Thư Bộ Lại, tước hiệu Trình Quốc Công. Từ đó người đời gọi ông là Trạng
Trình. Nhờ học phương pháp tính theo Thái Ất, tiên đoán được biến cố trước và
sau 500 năm. Người Trung Hoa khen Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm “An Nam lý
học hữu Trình Tuyền”. Tục truyền rằng Năm Bính ngọ (1546) Mạc Phúc Hải mất
truyền ngôi lại cho con Mạc Phúc Nguyên mãi đến năm mậu thân (1548) vua Trang
Tông mất, Trịnh Kiểm lập Thái tử tên Duy Huyên lên ngôi tức Trung Tông được 8 năm
thì mất không có con nối nghiệp. Trịnh Kiểm muốn làm vua nhưng còn sợ dư luận,
nên sai người đến Hải Dương hỏi ý khiến Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. ông không
chỉ bảo người giúp việc ngụ ý: “năm nay mất mùa, thóc giống không tốt, chúng
mày nên tìm giống cũ mà gieo mạ, gữi chùa thờ Phật thì ăn oản.. “ Sau đó
Trịnh Kiểm tìm con cháu họ Lê lên làm vua.
Dù Trạng Trình ở ẩn, vua Mạc cũng như
các chúa Trịnh, chúa Nguyễn có việc hệ trọng vẫn cho người đến hỏi ý ông. Ông
thường kín đáo khuyên Vua cố gắng tránh chiến tranh để nhân dân khỏi chết chóc.
Trong năm Quang Thiêu (Lê Chiêu Tôn) có việc biến loạn, Nguyễn Bỉnh Khiêm không
muốn tiếng tăm với đời lúc bấy giờ Trịnh Tuy, Mạc Ðăng Dung cũng cố ý muốn tranh
quyền, đánh nhau mấy năm dài. Ông tính số Thái Ất, biết nhà Lê lại khôi phục
được và làm bài thơ:
Non sông nào phải
buổi bình thời
Thú đánh nhau chi
khéo nực cười
Cá vực, chim rừng,
ai khiến đuổỉ
Núi xương sông
tuyết, thảm đầy vơi
Ngựa phi chắc có
hồi quay cổ (1)
Thú dữ nên phòng
lúc cắn người (2)
Ngán ngẫm việc đời
chi nói nữa
Bên đầm say hát,
nhởn nhơ chơi
~~~~~~~~~
1/ ứng nghiệm về
sau nhà Lê khôi phục
2/ ứng nghiệm nhà
Trịnh giữ nhà Lê
Sau khi nhà Lê bị Mạc Đăng Dung
(1483-1541) chiếm ngôi, con của vị tướng triều Lê là Nguyễn Hoàng Dụ trốn sang
Lào, được vua Lào cho nương náu ở xứ Cẩm Châu, trấn Nam Phủ, tỉnh Thanh Hóa. Năm
Quý Tỵ (1532) Nguyễn Kim lập con út vua Chiêu Tông lên làm vua, gọi là Trang
Tông. Để mưu đồ đại sự, Nguyễn Kim (1467-1545) thu nạp kiện tướng ở tỉnh Thanh
Hóa là Trịnh Kiểm, sau là rể của Nguyễn Kim. Năm Canh Tý (1540), Nguyễn Kim đem
quân đánh chiếm Nghệ An và thu phục luôn cả Thanh Hóa. Nhưng bỗng dưng Nguyễn
Kim chết vì ngộ độc (1545), mọi bình quyền về tay Trịnh Kiểm. Việt Nam lúc bấy
giờ bị chia đôi: từ Sơn Nam trở ra thuộc nhà Mạc, gọi là Bắc Triều. Từ Thanh Hóa
trở vào là khu vực của nhà Lê hay gọi là Nam Triều.
Nguyễn Kim mất, để lại hai người con
trai là Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng (1525-1613) cả hai tuy còn ít tuổi nhưng đã
bộc lộ tài năng xuất sắc hơn người. Trịnh Kiểm lo sợ cả hai sau này có thể tranh
giành địa vị với mình, nên ngấm ngầm ngăn trở dù Nguyễn Uông chỉ mắc một lỗi
nhỏ, Trịnh Kiểm cũng buộc Nguyễn Uông phải chịu phép gia hình. Nguyễn Hoàng thấy
anh bị hại, sợ đến lượt mình, liền cử người kín đáo lên hỏi Trạng Trình. Trạng
không trả lời cụ thể, chỉ đứng ngắm đàn kiến bò trên hòn non bộ trước sân nhà và
nói một câu:
Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung
thân.
Nghĩa là từ núi đèo ngang ở Quảng Bình
kia có thể yên thân được muôn đời. Từ câu nói đó, Nguyễn Hoàng nghiệm ra rằng
trạng Trình bày cho kế đi vào phương Nam lập nghiệp. Từ năm 1558 Nguyễn Hoàng
vội vàng đến nói riêng với chị là bà Ngọc Bảo xin Trịnh Kiểm cho vào trấn phiá
Nam, năm Mậu ngọ (1558) đời vua Anh Tông Trịnh Kiểm tâu vua cho Nguyễn Hoàng vào
trấn đất Thuận Hóa, phía Nam dãy Hoành Sơn. Nhờ thế mà lập nên cơ nghiệp của họ
Nguyễn ở Đàng Trong, truyền nối lâu dài.
Nguyễn Hoàng là người khôn ngoan, có
lòng nhân đức thu dụng hào kiệt giúp dân cho nên được lòng dân kính phục. Trấn
giữ đất Thuận Hóa, mở đầu cho triều đình nhà Nguyễn từ từ khai phá cho đến vùng
đồng bằng sông Cửu Long ngày nay. Ngoài ra rất nhiều lời sấm được lưu truyền qua
dân gian nhiều lời bàn diễn giải khác nhau như câu: ” Cẩu vĩtrư đầu, xuất
thánh nhân ” ứng nghiệm vào việc vua Gia Long lên ngôi từ (1802-1819) thống
nhất sơn hà vào năm Nhâm tuất ngày 02-05-1802. trải
qua 13 triều đại. Hoàng đế cuối cùng Bảo Ðại trị vì từ 1929 và thoái vị năm
1945.
Tương truyền Trạng Trình nói trước nhà
Mạc suy vong, ông đọc hai câu thơ: “Cao Bằng tàng tại- tam đại tồn cô”
(nghĩa rằng rút về đất Cao Bằng thì sẽ sống thêm được ba đời nữa) con cháu họ
Mạc về đất Cao bằng tuy nhỏ nhưng được 3 đời là Mạc Kính Cung, Mạc Kinh Khoan và
Mạc Kinh Vũ. Dòng dõi họ Mạc bị bắt, bị giết nhiều người đổi họ lưu lạc khắp nơi
để mưu cầu sự sống.
Trạng Trình có 3 người vợ và 12 người
con (7 trai 5 gái) các con trai đều có chức tước sau nầy. Ông mất ngày 28 tháng
11 năm Đinh dậu, niên hiệu Diên Thành thứ 8 nhà Mạc (1585) hưởng thọ 94 tuổi.
Theo sử sách Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là người có công lớn đối với triều
đình nhà Mạc nên sau khi mất (1585) vua Mạc Mậu Hợp ứng cử Ứng Vương Mạc Đôn
Nhượng, phụ chính triều đình làm khâm sai cùng với văn võ bá quan về dự lễ tang.
Tháng Giêng năm sau (1586), vua Mạc ban cho làng Trung Am 3.000 quan tiền để lập
đền thờ ông và cấp 100 mẫu ruộng để lấy hoa lợi dùng vào việc thờ cúng. Đền thờ
được dựng trên nền Giảng học – Am Bạch Vân và tự tay nhà vua đề biển ngạch:
“Mạc Triều Trạng Nguyên Tể Tướng Từ” (Đền thờ Tể tướng Trạng nguyên Triều
Mạc). Trải qua những biến cố lịch sử ngôi đền được trùng tu, xây dựng lại nhiều
lần vào các năm: Vĩnh Hựu nguyên niên (Ất Mão 1735, đời vua Lê Ý Tông); Minh
Mạng thập tứ (1833). Ngôi đền hiện nay được dựng lại vào năm Mậu Thìn (1928) đời
vua Bảo Đại. Đến năm 1985, nhân kỷ niệm 400 năm ngày mất của ông, một lần nữa
đền lại được trùng tu làm thêm nhà khách, hồ nước, cổng đền, tường bao, đường
vào đền…
Trước khi qua đời, Trạng trình có ghi
vào gia phả và dặn con cháu rằng: Bình sinh ta có tấm bia đá sẵn và đã sơn kia.
Khi ta mất rồi, hễ hạ quan tài xuống phải để tấm bia đá ấy lên nắp rồi lấp đất.
Chờ khi nào có khách tới viếng mộ và nói rằng: “Thánh nhân mắt mù” thì
phải lập tức mời người ấy vào nhà, yêu cầu họ đổi hướng lại ngôi mộ cho ta. Nếu
trái lời ta, dòng dõi về sau sẽ suy đồi lụn bại đấy. Con cháu nghe lời, làm y
như đã dặn. Nhưng chờ mãi đến năm mươi năm sau, mới có người khách đến nhìn mộ
cụ một lúc rồi nói: Cái huyệt ở đằng chân sờ sờ thế kia mà không biết, lại tự
đem để mả thế này. Vậy mà thánh nhân gì chớ, hoạ chăng là thánh nhân mắt mù.
Người trong họ nghe được, chạy về báo với trưởng tộc. Ông này vội vàng ra đón
người khách Tàu kia về nhà, xin để xoay ngôi mộ kia lại. Ra đó là một nhà phong
thuỷ (Feng Shui) trứ danh ở phương Bắc. Ông ta sang là để đi tìm xem di tích của
Trạng, bấy lâu ông ta đã nghe tiếng đồn. Khi nghe vị trưởng tộc nói, ông ta sẵn
lòng làm ngay, và tự đắc cho rằng mình giỏi hơn Trạng Trình. Ông ta bảo: Không
cần phải đem đi đâu xa cả, chỉ đào lên rồi xoay lại, nhích đi một chút là được.
Ông trưởng tộc bèn tụ họp con cháu lại, đưa thầy địa lý Tàu ra đổi lại ngôi mộ.
Lúc đào đến tấm bia đá, ông ta làm lạ bảo đem rửa sạch xem những gì trên đó. Khi
tấm bia được rửa sạch, mới thấy mấy câu thơ hiện ra, tạm dịch
nghĩa:
Ngày nay mạch lộn
xuống chân
Năm mươi năm trước
mạch dâng đằng đầu.
Biết gì những kẻ
sinh sau?
Thánh nhân mắt có
mù đâu bao giờ?
Đọc tới đâu vị khách Tàu phải khâm phục
Trạng Trình mà ông ta nghe đồn là giỏi thật. Năm 1930 Việt Nam Quốc Dân Ðảng
lãnh tụ Nguyễn Thái Học (1901-1930) lãnh đạo cuộc tổng khởi nghiã ngày 10.2.1930 đánh Tây ở các tỉnh: Yên Bái, Hưng
Hóa, Lâm Thao, Hải Dương, Kiến An. Thất bại bị Pháp điên cuồng ném bom tàn phá
làng Bảo An để trả thù. Có lời đồn Trạng Trình đã tiên đoán:
Kìa kìa gió thổi lá
rung cây
Rung Bắc rung Nam
rung tới Tây
Tan
tác kiến kiều an đất
nước
Xác
xơ cổ thụ
sạch am cây
Lâm giang nổi gió
mù thao cát
Hưng địa tràn dâng hóa nước
đầy
Một ngựa
một yên ai
sùng bái
Nhắn tin
nhà vĩnh bảo cho hay.
Thoát nạn sập
nhà
Trạng Trình giao cho con cháu một ống
tre sơn son thếp vàng, bịt kín hai đầu, và dặn đúng năm tháng ấy, ngày giờ ấy,
phải để cái ống ấy vào kiệu rước lên dinh Thống đốc Hải Dương, trao cái ống này
cho quan thì sẽ cứu được tình thế gia đình.
Khi Trạng mất, hằng trăm năm sau, con
cháu Trạng lâm vào cảnh đói nghèo, sa sút, nhưng tuyệt đối không được mở ống ra
xem trước thời hạn. Trạng còn dặn kỹ trừ quan Tổng đốc ra, không ai được mở ống,
vì thế ống vẫn giữ nguyên vẹn.
Trải qua bảy đời, cái ống tre ấy mới
được rước lên dinh quan Tổng đốc, đúng ngày giờ đã ghi trong gia phả. Đang nằm
nghỉ, nghe tin con cháu cụ Trạng mang thư đến gặp, quan Tổng đốc rất ngạc nhiên,
không biết vì cớ gì, nên truyền cho vào, đồng thời quan ngồi dậy để đi ra
cửa.
Quan Tổng đốc vừa bước khỏi giường nằm
được mấy bước thì bỗng rầm một cái, chiếc sà nhà không biết bị mọt ăn hỏng từ
bao giờ, rơi ngay xuống chỗ giường vừa nằm. Thật là một phen hú vía! Nếu ông
không kịp ngồi dậy nhận thư Trạng, thì mạng ông đã khó mà sinh tồn. Quan Tổng
đốc mở ống tre ra xem, thấy bên trong có một cuộn giấy, đề hai câu
thơ:
Ngã giải nhĩ thượng
lương chi ách,
Nhĩ cứu ngã tử tôn
chi bần
Nghĩa là:
Cứu người thoát nạn
đổ nhà,
Ngươi nên cứu cháu
con ta khỏi nghèo
Chưa hết kinh hoàng vì chuyện chiếc sà
nhà vừa rơi xuống, ông thoát nạn nhờ ra lấy lá thư. Quan Tổng đốc biết rằng
Trạng Trình cứu ông thoát chết, nên ông ta ân cần mời cháu Trạng Trình về tư
thất đãi hậu hỹ, sau đó đưa ra rất nhiều tiền giúp khỏi cảnh nghèo
đói.
Nguyễn Công Trứ (1778-1858) phá
đền
Năm Minh Mạng (1791-1840) năm thứ 14,
Nguyễn Công Trứ được vua điều đi khẩn hoang ở vùng Hải Dương, Nguyễn Công Trứ
thấy địa thế cần phải đào con sông, đào sông thì phải phá đền thờ Trạng trình
Nguyễn Bỉnh Khiêm, ông ra lệnh cho dân phu phá đền để khai phá công trường. Khi
sai người đào mang bát hương ra, Nguyễn Công Trứ chợt thấy dưới bát hương có một
tấm bia đá nhỏ phủ vải điều. Nguyễn Công Trứ lau sạch đọc được các câu đã
ghi:
Minh Mạng thập
tứ
Thằng Trứ phá
đền
Phá đền phải làm
đền
Nào ai đụng đến
doanh điền nhà bay
Nguyễn Công Trứ lập tức viết sớ về kinh,
xin bãi bỏ lệnh phá đền. Ông còn cho người sửa sang lại đền Trạng Trình khang
trang hơn. Từ đó ông không còn nghĩ đến việc phá đền để đào sông
nữa.
Cha con thằng
Khả
Tục truyền trong làng có cha con ông Khả
đi bắt dế (chuột) kiếm sống. Khi đến bên mộ Trạng, hai cha con vướng víu thế nào
lại làm đổ tấm bia trên mộ. Dân làng rất sùng kính Trạng Trình, nên khi thấy bia
mộ bị đổ, họ nổi giận bắt cả hai cha con, kêu nộp phạt ba quan tiền mới tha, vì
khi tấm bia đổ xuống thấy có hàng chữ ở sau:
Cha con thằng
Khả
Đánh ngã bia
tao
Làng xóm xôn
xao
Bắt đền tam
quán
Cha con ông Khả chịu nộp phạt, nhưng dân
làng phải tha cha con về nhà chạy tiền. chỉ tìm được có một quan tám, dân làng
không chịu, cha con ông Khả ngẫm nghĩ phải nói với dân làng: Cha con tôi bị
Trạng Trình bắt phạt có quan tám, “Tam quán” nói lái lại thành quan
tám.
Thời gian và thế sự xoay
vần
Chuột sa chỉnh gạo nằm chơi
Trâu cày ngốc lại chào đời bước ra
Hùm gầm khắp nẽo gần xa
Mèo kêu rợn tiếng quỷ ma tơi bời
Rồng bay năm vẽ sáng ngời
Rắn qua sửa soạn hết đời sa tăng
Ngựa hồng qủy mới nhăn răng.
Trâu cày ngốc lại chào đời bước ra
Hùm gầm khắp nẽo gần xa
Mèo kêu rợn tiếng quỷ ma tơi bời
Rồng bay năm vẽ sáng ngời
Rắn qua sửa soạn hết đời sa tăng
Ngựa hồng qủy mới nhăn răng.
Những điều tiên đoán trên, liên quan với
hiện tình đất nước Việt Nam. Hy vọng năm 2013 Quý Tỵ cầm tinh con rắn, Việt Nam
bước vào giai đoạn lịch sử mới mẻ hơn, người dân biết những gì xảy ra tại các
nước khác, giới trẻ ra nước ngoài học và trở về. Tôi hy vọng toàn dân cùng đoàn
kết hổ trợ và tiếp tay với những người yêu nước giải thể đảng CSVN để canh tân
đất nước đem lại tự do, dân chủ đưa VN đến phú cường và thịnh vượng. Đảng cộng
sản Việt Nam hãy thức dậy! mở to đôi mắt nhìn xa hơn, bài học lớn nhất trong
lịch sử, Thiên đường cộng sản Liên Sô (Soviet Union) sụp đổ kéo theo các nước
trong các nước Đông Âu: Poland, Romania, Hungary, Bulgaria, Czechoslovakia
(Slovakia/ Slovenia) bỏ chế độ cộng sản để có tự do, độc lập và nhân quyền được
tôn trọng . Noi gương nước láng giềng Miến Điện cởi mở, trả tự do cho những tù
nhân chính trị, chấm dứt chính sách đàn áp, kiểm duyệt truyền thông báo chí, cho
bầu cử tự do…
Những người cầm quyền đã quá giàu rồi
nên thức tỉnh để hưởng phúc, đừng tham quyền cố vị, không có khả năng đưa đất
nước phục hưng về kinh tế, chính trị giữ vững bờ cõi nên từ chức cho người tài
giỏi hơn lãnh đạo. Những nhà độc tài giàu sang hàng trăm tỷ USD như Saddam
Hussein, (Iraq) Gadhafi, (Lybia) N. Ceausescu (Romania) người đời nguyền rủa và
bị giết kéo xác trên đường phố như một con chó, con cháu họ cũng bị giết hay bị
tù tội, gia đình ly tán tài sản bị tịch thu.
Thơ văn của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Kiêm
còn lại hơn 100 bài trong bộ Bạch Vân Thi Tập, được dịch ra chữ quốc ngữ, thơ
mang nặng tình người, khuyên người đời biết điều nhân nghĩa, ngoài ra còn một số
giai thoại truyền tụng trong nhân gian…và những lời sấm ký có giá
trị.
Đời sống của tiên sinh thật xứng đáng
với câu đối ở đền thờ tại Bạch Vân Am:
“Kế tuyệt, phù suy
Chư Cát Lượng
Tri lai, tàng vãng
Thiệu Nghiên Phu”
(Nối được cái đã đứt, đỡ được cái đã suy như Chư Cát
Lượng
Tìm hiểu việc đã qua, dự đoán việc mai sau như Thiệu
Nghiên Phu).
Nhà thờ ở huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng, có bức hoành phi đại
tự ở chính giữa có 4 chữ “An Nam lý học” từ câu “An Nam lý học hữu
trình tuyền” có nghĩa là am hiểu về lý học ở nước An Nam có Trình tuyền hầu
(tước vị của Nguyễn Bỉnh Khiêm), Đặc biệt có một số câu đối nói rõ chính kiến
của ông về thế sự và hậu thế ca ngợi công đức của ông.
Nguyễn Quý
Đại
Tài liệu tham
khảo
- Việt Nam Sử lược: Trần Trọng
Kim
- Tự Ðiển nhân vật lịch sử: Nguyễn Quyết
Thắng
- Những câu chuyện lịch sử tập 3: Trần
Gia Phụng
- Thái Ất Thần Kinh nhà xuất bàn văn
Hóa
- Trang Wikipedia hình trên
Internet
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét