Linh mục Phê-rô Phan Văn Lợi, 04-02-2018
Toàn thể dân
Việt đang bước vào thời điểm tưởng niệm 50 năm biến cố Tết Mậu Thân
(1968-2018). Đây là sự kiện thuộc hạng đáng ghi nhớ nhất trong Việt sử
vì nhiều mối liên hệ: ý nghĩa thiêng liêng của ngày Tết dân tộc, cuộc
tấn công của Cộng sản VN bất chấp tuyên bố hưu chiến, sự thất bại thảm
hại của cuộc tổng tấn công về mặt quân sự và chính trị, tội ác đã gây ra
cho chính Đồng bào Việt Nam, thái độ cố chấp của Cộng sản không nhìn
nhận sai phạm của họ, dù đã nửa thế kỷ.
1- Trước
hết, xin nhắc lại những thời điểm then chốt: Ngày 19-10-1967, nhà cầm
quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của Hồ Chí Minh long trọng tuyên bố: vào
dịp Tết Mậu Thân, miền Bắc Việt Nam tự nguyện ngưng bắn từ 27-01 đến 03-02-1968 (tức
28 tháng Chạp đến 05 tháng Giêng Mậu Thân, 8 ngày). Ngày 17-11-1967,
tới lượt Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam –tổ chức chính trị mà trên
danh nghĩa điều hành và chịu trách nhiệm toàn bộ hoạt động “giải phóng
miền Nam” nhưng thực chất chỉ là công cụ của Hà Nội– long trọng đưa ra
tuyên bố tương tự.
Chính quyền Việt
Nam Cộng hòa dưới sự lãnh đạo của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu dè dặt hơn
nên mãi đến ngày 16-12-1967 mới tuyên bố cũng tự nguyện ngừng bắn từ
30-01 đến 01-02-1968 (3
ngày, mồng 1 đến mồng 3 Tết Mậu Thân). Sau tuyên bố vừa kể, đa phần
quân nhân Quân lực Việt Nam Cộng hòa được nghỉ phép ăn Tết, lệnh giới
nghiêm trên toàn miền Nam được bãi bỏ…
Thế nhưng đêm 29
rạng ngày 30-01-1968 –đúng thời điểm Giao thừa âm lịch– nhiều đơn vị
quân đội và du kích Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lẫn Mặt trận Dân tộc Giải
phóng miền Nam các tỉnh từ Quảng Nam đến Khánh Hoà đồng loạt nổ súng, mở
đầu cái gọi là cuộc “Tổng công kích–Tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân 1968”;
ở các chiến trường còn lại –do hiểu khác– đã khởi chiến đúng vào đêm 30
rạng ngày 31 tháng 1 năm 1968 (tức đêm 1 tết theo lịch miền Nam). Và chỉ trong vòng 2 ngày, chúng đã tiến vào 41 thành phố, thị xã, 72 quận lỵ, kể cả thủ đô Sài Gòn và cố đô Huế, nghĩa là đánh vào các khu dân cư. Cả miền Nam, từ chính quyền đến dân chúng đều choáng váng trước kiểu “tự nguyện ngừng bắn” này của Việt cộng.
Choáng váng là
phải, vì Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đến nay đều xem Tết có một ý nghĩa
vô cùng thiêng liêng. Bởi lẽ đó không những là thời điểm năm cũ chuyển
sang năm mới theo định luật của trời đất, nhưng quan trọng hơn, trong
văn hóa dân tộc, đó là thời gian dành cho đoàn tụ gia đình, yêu thương
hòa giải, cầu mong an lành cho nhau và hy vọng tương lai tốt đẹp. Đó là
lúc người ta đốt nén hương dâng lên tổ tiên và những người đã khuất
trong niềm tưởng nhớ các kỷ niệm và lời giáo huấn; đó là lúc cha mẹ con
cái sum vầy trong tinh thần xí xóa chuyện cũ, sống giây phút hiện tại
cách đầm ấm, bên những thức ăn ngon lành và ý nghĩa hay qua những trò
vui mang bản sắc văn hóa dân tộc; đó là lúc mọi người cầu chúc cho nhau
và hứa hẹn với nhau những điều tốt đẹp trong 365 ngày sắp tới. Thế
nhưng, lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc và lịch sử bao cuộc chiến
tranh trên đất nước, Việt cộng đã tung ra một cuộc tấn công những người
cùng da vàng máu đỏ tại các khu vực cư dân đông đúc vào chính những giờ
khắc linh thiêng nầy. Tiếng pháo đã chen lẫn tiếng súng! Rượu hồng đã
hòa vào máu đỏ! Bánh tét đã trộn lẫn với thịt người !
2- Nhằm
kỷ niệm 50 năm biến cố ấy, đảng và nhà nước VC đã làm lễ ăn mừng sáng
ngày 31 tháng 01 tại Hội trường Thống nhất, thành Hồ, với chủ đề “Bản
hùng ca Xuân Mậu Thân 1968”. Trước đó họ đã đồng loạt tổ chức “Hội thảo
khoa học cấp quốc gia” với đề tài “Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 - Bước ngoặt quyết định và bài học lịch sử”,
và tung ra 2 bài viết ca tụng cái gọi là “chiến thắng” trong chiến dịch
này của Chủ tịch nước VC Trần Đại Quang và của Bộ trưởng Quốc phòng Ngô
Xuân Lịch.
Mục đích của Hội thảo được Thượng tướng VC Lê Chiêm, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, xác định: “Góp
phần tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang
(LLVT) và nhân dân, nhất là thế hệ trẻ phát huy truyền thống cách mạng,
hun đúc tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội (CNXH), lòng tự hào, tự
tôn dân tộc, truyền thống đại đoàn kết trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc”. Dĩ nhiên đó chỉ là tuyên truyền xuyên tạc và nhồi sọ!
Tại cuộc Hội thảo do Bộ Quốc phòng, Ban Tuyên giáo Trung ương và Thành ủy HCM phối hợp tổ chức ngày 29-12-2017 tạiSài Gòn, nơi có các mục tiêu quan trọng bị tấn công như Dinh Độc Lập, Tòa Đại sứ Mỹ và Đài Phát thanh Sàì Gòn, các diễn giả đã tận lực khoe khoang cho cái gọi là “giá trị của cuộc tổng tiến công và nổi dậy ; khẳng định chủ trương đúng đắn, sáng suốt của Trung ương Đảng và Chủ tịch HCM; tái
hiện diễn biến và những nét độc đáo của nghệ thuật quân sự Việt Nam
trong cuộc tổng tiến công, trình độ chỉ huy, khả năng cơ động và phối
hợp chiến đấu giữa các lực lượng trên chiến trường miền Nam…”.. Ngô Xuân Lịch thì huênh hoang nhận định: “Thắng
lợi của Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã khẳng định
sự phát triển cao của nghệ thuật quân sự Việt Nam; đặc biệt là nghệ
thuật nắm bắt thời cơ chiến lược để chủ động tiến công địch, làm chuyển
biến cục diện chiến tranh, nghệ thuật tiến công bằng các phương thức tác
chiến mới giành thế bất ngờ…”. Không chỉ có thế, ông Lịch còn bịa thêm rằng: “Nhận
thức rõ vai trò quan trọng của lực lượng vũ trang trong chiến tranh
cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên coi trọng xây
dựng LLVT ba thứ quân, nhất là xây dựng bộ đội chủ lực từng bước phát
triển lớn mạnh. Theo đó, đến cuối năm 1967, lực lượng bộ đội chủ lực
toàn miền Nam đã phát triển lên 278.000 người, được tổ chức thành 190
tiểu đoàn chiến đấu, bố trí bí mật trên khắp các chiến trường. Đây là
một trong những nhân tố tạo sức mạnh trực tiếp, quyết định thắng lợi
cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968; đồng thời, thể hiện
tầm nhìn và sự chỉ đạo chiến lược sắc sảo của Đảng ta về xây dựng LLVT
nhân dân trong chiến tranh giải phóng dân tộc.”
Làm gì có cái gọi là “Lực lượng bộ đội chủ lực toàn miền Nam” do chính người miền Nam lập ra để hình thành “Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam”! Thật ra đa số trong đội ngũ này là của miền Bắc được đào tạo đưa vào Nam, phối hợp với 30 đến 40 ngàn bộ đội VC được giữ lại trong Nam mà không tập kết ra Bắc theo điều kiện của Hiệp định Geneve 1954, rồi nhập chung với du kích miền Nam để cùng đội mũ tai mèo, đi chân đất, mặc quần xà lỏn, bận áo bà ba đen và tới đâu cũng khoe là “quân giải phóng”.Chính đạo quân “nằm vùng” này là lực lượng nòng cốt để Hà Nội thành lập cái gọi là Quân đội Giải phóng và Mặt trận Giải phóng miền Nam tay sai ngày 10-12-1960. Ngô Xuân Lịch cũng không ngần ngại cho rằng VC đã chiến thắng dòn dã ở Huế như sau: “Đặc
biệt, với 25 ngày đêm làm chủ thành phố Huế đã khẳng định sức mạnh của
LLVT ba thứ quân, góp phần quan trọng vào thắng lợi cuộc Tổng tiến công
và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 của quân và dân miền Nam anh hùng”.
Trong “Lễ kỷ niệm 50 cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968”
do Bộ Chỉ huy Quân sự thành phố Cần Thơ phối hợp tổ chức với Sở Giáo
dục hôm 15-11-2017, VC còn khoe khoang một cách trâng tráo lố bịch: Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy tại Cần Thơ chủ yếu tập trung tại vị trí lịch sử Lộ Vòng Cung, kéo dài trong 3 đợt, từ ngày 30-01 đến ngày 30-09-1968, loại khỏi vòng chiến 25.000 tên địch, phá hủy 228 máy bay, cùng nhiều đồn bốt, súng các loại ?!?
3- Điều lạ là tất cả nội dung VC dành tung hô biến cố MT đã không có một chữ hay con số nào nói lên sự tổn thất lớn lao củabộ đội miền Bắc và quân du kích trong Nam. Nhưng người ta còn nhớ khi bộ phim tài liệu dài 12 tập “Mậu Thân 1968” (đầy dối trá vì phủ nhận việc thảm sát thường dân và các hố chôn người) được bắt đầu chiếu trên đài Truyền hình VN từ ngày 25-01-2013, nữ đạo diễn Lê Phong Lan đã cho biết lý do làm phim trễ: nhà cầm quyền VC coi vụ Mậu Thân là “vấn đề nhậy cảm” chẳng ai muốn nói đến.Đó là vì -Lê Phong Lan nói- “sự
tổn thất của quân đội nhân dân Việt Nam ở sự kiện này quá nhiều. Tâm sự
với tôi khi trả lời phỏng vấn, nhiều chỉ huy các sư đoàn dạn dày chiến
trận còn khóc nức lên vì thương lính. Đó là lý do duy nhất”.
Trên thực tế, cả quân miền Bắc lẫn du kích miền Nam đã thiệt hại rất nặng. Theo ước tính của các chuyên gia quân sự thì trong cuộc tấn công ấy, VC đã vận dụng từ 323,000 đến 595,000 quân chính quy và địa phương trong Nam để thực hiện kế hoạch chống lại khỏang 1 triệu 200 ngàn quân VNCH và Hoa Kỳ, với dự kiến chiếm đóng nhiều vùng lãnh thổ. Tuy nhiên kế hoạch lớn lao của Hà Nội đã bị quân và dân VNCH được sự yểm trợ của quân đội Hoa Kỳ đánh bại. Khỏang từ 85,000 đến 100,000 quân VC bị loại khỏi vòng chiến, so với thiệt hại của bên kia là trên 6,000 tử thương, ngót 30,000 bị thương và trên 1,000 quân bị mất tích. Theo báo chí củaVC tiết lộ vào năm 1998, nhân kỷ niệm 30 năm Mậu Thân, đã có trên 100,000 lính VC mất tích hay vong mạng. Ngoài ra, suốt thời gian biến cố Mậu Thân và đặc biệt tại thành phố Huế bị chiếm đóng lâu nhất, không nơi nào có “nổi dậy” của nhân dân như VC tuyên truyền từ trước cho bộ đội, và cũng chẳng có nơi nào dân bỏ phía Quốc gia chạy sang phía Cộng sản. Hà
Nội quả đã thất bại thê thảm về mặt quân sự lẫn chính trị. Chính một sĩ
quan cao cấp VC, thiếu tướng Huỳnh Công Thân, “anh hùng các Lực lượng
vũ trang nhân dân”, tỉnh đội trưởng Long An, tư lệnh Phân khu 3 khi diễn
ra cuộc “Tổng công kích–Tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân”, trong hồi ký “Ở
chiến trường Long An” (Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân 1994) đã cho thấy
ai thắng ai thua trong kế hoạch vừa điên rồ, vừa phi nhân đó. Còn “độc đáo”, “oanh liệt” hay không thì chỉ cần đọc lại những lời tuyên bố của trung tướng VC Trần Văn Trà nhìn nhận Bộ chỉ huy Cộng sản đã tính tóan sai lầm trong vụ tấn công quân sự Mậu Thân. Nhà văn Phạm Đình Trọng, trong bài viết “Về Với Dân, phần 3: Khắc khoải xuân Mậu Thân 1968”,https://nhatbaovanhoa.com/a692/tet-mau-than-1968-nhin-tu-mot-nha-van-dang-vien-cong-san-o-ha-noi có kể rằng khi nghe nhà văn quân đội CS, đại tá Xuân Thiều trình bày: “Tôi thấy Tết Mậu Thân 68 ở Huế chết chóc nhiều quá, mất mát đau thương lớn quá. Bộ đội chết không còn người để chôn nhau. Dân chết cũng nhiều..”. Mới nghe có thế, Tổng Bí thư Lê Duẩn đã đứng bật dậy, đỏ mặt quát: “Ngu! Ngu! Đại Tá mà ngu!...” rồi ông đùng đùng bước nhanh ra cửa như chạy trốn.
Phần Chế Lan Viên, một thi nô của VC (nhưng sám hối cuối đời) với chỉ
một câu thơ, đã nói lên nhiều ý nghĩa. Ông đã mở đầu bài thơ “Ai? Tôi?”
viết năm 1987 như sau: “Mậu Thân 2.000 người xuống đồng bằng. Chỉ một đêm, còn sống có 30. Ai chịu trách nhiệm về cái chết 2.000 người đó?”
4- Nhưng
phải nói trách nhiệm lớn lao nhất của Việt cộng trước Dân tộc, trước
Lịch sử chính là cuộc thảm sát thường dân tại Huế trong 25/26 ngày chúng
chiếm được thành phố này. Ông Nguyễn Lý Tưởng, nhà sử học, cựu Dân biểu khu vực Thừa Thiên, người đã sống vào thời điểm xảy ra biến cố Tết Mậu Thân ở Huế và các nơi khác cũng như từng tiếp xúc với một số nhân chứng của cả hai bên (Quốc gia lẫn VC hồi chánh), đã kể lại trong “Cuộc hội thảo về chiến tranh Việt Nam tổ chức tại Vietnam Center (Lubbock, Texas, Hoa Kỳ) từ 13 đến 15-03-2008 như sau: “Các nạn nhân bị thảm sát tại Huế và Thừa Thiên được tìm thấy tại trường tiểu học Gia Hội, chùa Theravada,
Bãi Dâu, Cồn Hến, Tiểu Chủng viện, khu vực phía Tây Huế gần lăng Tự Đức
và lăng Đồng Khánh, cầu An Ninh Thượng, cửa Đông Ba, trường An Ninh Hạ,
trường Văn Chí, chợ Thông, Lang Xá Cồn, gần lăng Gia Long, gần chùa
Tường Vân, Đông Gi (Di), Vinh Thái, Thủy Thanh, Lương Viện, Phù Lương,
Phú Xuân (Phú Thứ), Thượng Hòa, Vinh Hưng, Khe Đá Mài... tất cả 23 địa
điểm tổng cộng 2326 xác chết (sọ người). Còn khoảng trên 3,000 nạn nhân
thuộc tỉnh Thừa Thiên và Huế đã được thân nhân xác nhận là chết hoặc bị
bắt đi thủ tiêu, mất tích... không biết họ đã bị giết chết và chôn xác ở
đâu?!
Dã man nhất là tại Khe Đá Mài (thuộc vùng núi Đình Môn, Kim Ngọc, quận Nam Hòa, tỉnh Thừa Thiên). VC đã
dùng súng trung liên, đại liên, lựu đạn và mìn giết tập thể các nạn
nhân, vất xác xuống dưới khe, lâu ngày thịt thối rữa bị nước cuốn đi,
chỉ còn 428 sọ người, xương người dồn lại một đống. Người ta đã dựa vào
các dấu vết còn lại của nạn nhân như áo len, tượng ảnh, giấy căn cước
bọc nhựa... để biết được thân nhân của mình đã chết ở trong đống sọ và
xương lẫn lộn đó. Đa số những nạn nhân nầy là giáo dân bị bắt ở nhà thờ
Phủ Cam vào đêm mùng 5 Tết (03-02-1968)”
Về cuộc thảm sát
tại Khe Đá Mài, người viết đã có may mắn gặp được chứng nhân duy nhất
còn sống của biến cố đó, đã phỏng vấn đương sự và đã ghi lại tường thuật
của đương sự trong bài viết dài 6 trang A4: “Biến cố Mậu Thân-Cuộc thảm
sát tại Khe Đá Mài” phổ biến tháng 11-2007, nhân kỷ niệm 40 năm cuộc
thảm nạn này. (http://www.duocviet.org/2017/02/05/bien-co-mau-than-cuoc-tham-sat-tai-khe-da-mai/).
Những giáo dân Phủ Cam bị thảm sát trong vụ này (công chức, thanh niên,
học sinh hiền lành) là nạn nhân vô tội của việc Cộng sản trả thù những
chiến binh (lính chính quy và nghĩa quân VNCH) đã cầm súng bảo vệ giáo
xứ suốt mấy ngày nhưng sau đó phải rút về Phú Bài vì không được tiếp
viện.
Sự tàn ác vô nhân tính của VC trong cuộc thảm sát tại Huế đã được nhà văn Đinh Lâm Thanh, hiện sống ở Pháp, chứng nhân biến cố, mô tả như sau trong bài thuyết trình dịp tưởng niệm 40 năm biến cố tổ chức tại Paris ngày 02-03-2008: “Tại
Huế, CS lùng bắt thành phần quân-cán-chính, tập trung dân để tổ chức
đấu tố, bắn giết, chôn sống tại chỗ một số và dẫn những người còn lại
theo làm tù dân - tôi nói tù dân, vì tù là những người dân vô tội -
trước khi rút
lui tháo chạy trước sức tấn công mãnh liệt của QLVNCH và Đồng minh… Mỗi
hố chôn tập thể từ 5, 7 người đến trên 400 nạn nhân như ở Khe Đá Mài.
Những nạn nhân nầy bị thảm sát một cách dã man như : Cột chùm lại với
nhau và đốt cháy bằng xăng, bắt ngồi trên mìn rồi cho nổ tan xác, chặt
đầu, bắn vào ót, đập chết bằng bá súng, đóng cọc từ dưới bàn tọa lên đến
cổ, trói tay chân thành từng chùm rồi xô xuống hố chôn sống”.
Ông Võ Văn Bằng, Trưởng ban Cải táng Nạn nhân CS Tết MT nói với đài Á Châu Tự Do (RFA) năm 2008 : “Các hố cách nhau. Mỗi hố vào khoảng 10 đến 20 người. Trong các hố, người thì đứng, người thì nằm, người thì ngồi,
lộn xộn. Các thi hài khi đào lên, thịt xương đã rã ra. Trên thi hài còn
thấy những dây lạt trói lại, cả dây điện thoại nữa, trói thành chùm với
nhau. Có lẽ họ bị xô vào hố thành từng chùm. Một số người đầu bị vỡ
hoặc bị lủng. Lủng là do bắn, vỡ là do cuốc xẻng…”
Trong bài nói chuyện tại buổi Tưởng niệm 40 năm Tết Mậu Thân, Việt Báo Gallery ngày 29-3-2008, nhà văn Nhã Ca tác giả “Giải Khăn Sô Cho Huế” đã tố cáo: “Bốn mươi năm trước đây, đúng vào giờ trưa mùng Hai Tết, tại Cửa Đông Ba Huế, chỉ mấy tiếng đồng hồ sau khi đột nhập, CS khai
diễn cuộc tàn sát. Toán nạn nhân đầu tiên gồm 5 thường dân -không hề có
người lính Cộng hòa nào. Tất cả bị trói, bắt đứng quay lưng vào tường
thành. Dân chúng đứng coi. Súng AK nổ. Từng người gục chết. Sau cuộc
hành hình, thân nhân những người bị bắn nhào ra muốn ôm xác. Họ bị đánh,
bị đá, bị đuổi. Xác người bị phơi ngày phơi đêm. Nắng. Máu. Giòi bọ… Và
cuộc tàn sát tiếp tục. Không bằng súng đạn mà bằng cách chôn sống.
Những nạn nhân bị cột trói bằng dây điện dính chùm xếp hàng bên hố. Một
vài người bị đập đầu. Cả dây người đang sống bị đạp xuống hố đè lên
nhau. Cái đầu nào ngóc lên bị đập bằng cuốc. Cứ thế mà chôn hàng ngàn
người. Bạn tôi, chị Tâm Túy cũng đã bị chôn sống. Khi xác đào lên, thấy
hai tay chị vói lên như đang cố cào bới đất. Móng tay, móng chân mọc dài
hơn. Tóc mọc dài hơn… Bạn tôi bị chôn sống khi còn đầy sức sống...Huế Tết Mậu Thân. Hàng ngàn người đã bị chôn sống như thế” (Việt Báo ngày 31-3-2008).
5- 50 năm đã trôi qua. Nhiều chứng nhân vẫn còn sống (trong đó có kẻ viết bài này), nhiều chứng tích vẫn tồn tại (chẳng hạnngôi mộ tập thể chôn cất xương cốt của hơn 400 nạn nhân khe Đá Mài tại núi Ba Tầng [núi Bân], phía Nam thành phố Huế,
nhưng trong tình trạng bị bỏ hoang phế với trụ bia và hai bàn thờ bị VC
phá hủy ngay sau tháng 4-1975), vô số tài liệu đã được công bố rộng rãi
trên mạng về cuộc thảm sát cách đây nửa thế kỷ.. Thế nhưng đảng và nhà cầm quyền VC vẫn quyết tâm không thừa nhận sự thật, lãnh nhận trách nhiệm, công nhận tội ác tầy trời mà chính họ đã gây ra cho Dân tộc và Đồng bào trong những ngày xuân năm 1968, vẫn không giải oan cho các nạn nhân vô tội bị giết bằng cách chính thức tạ tội và để tự do cho bất cứ cá nhân hay tập thể nào tưởng nhớ các nạn nhân này, vẫn tiếp tục trình bày biến cố Mậu Thân như một chiến thắng lừng lẫy..
Tâm địa tàn ác
ngay cả với đồng bào và thói bất hối lỗi đó đã ăn sâu trong con người
Cộng sản, nhất là giới lãnh đạo. Nó bắt nguồn từ Hồ Chí Minh, với bài
viết “Địa chủ ác ghê” (1953), bản cáo trạng vu khống và tuyên án tử hình
vô tiền khoáng hậu đối với ân nhân của đảng là bà Nguyễn Thị Năm, với
việc để cho Trần Quốc Hoàn giết chết người tình đã có con với mình là
Nguyễn Thị Xuân; rồi từ bộ Chính trị đảng thời đầu với cuộc Cải cách
Ruộng đất giết trực tiếp lẫn gián tiếp nửa triệu nông dân miền Bắc, với
cuộc xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa làm vong mạng gần 4 triệu đồng bào hai
miền đất nước (chết vì đánh trận, chết vì ám sát thủ tiêu, chết vì mìn
nổ trên đường, vì lựu đạn ném vào rạp hát, chợ búa, nhà hàng, vì đạn
pháo kích vào trường học…). Tâm địa tàn ác và thói bất hối lỗi đó tiếp
tục sau năm 1975 với việc tàn sát hơn 100 ngàn quân nhân cán chính VNCH
trong các trại tập trung cải tạo, với việc đẩy hàng triệu Đồng bào ra
biển khơi hay vào rừng thẳm để chạy trốn chế độ mà một nửa đã vong mạng,
với việc gây ra nạn dân oan hàng chục triệu người nay sống dở chết dở,
với việc giết oan hàng trăm công dân bị bắt bắt vào đồn, với việc thản
nhiên tuyên những bản án tử hình cho nhiều người vô tội như Hồ Duy Hải,
Nguyễn Văn Chưởng, Lê Văn Mạnh và mới đây nhất là cho Đặng Văn Hiến, anh
nông dân tự vệ giữ đất…. Chưa thấy Việt Cộng hối lỗi bao giờ trước các
tội ác đó! Đó là chưa kể tội ác đẩy đất nước vào cơn lụn bại mọi mặt,
dân chúng vào cảnh điêu linh cuộc sống, Tổ quốc vào nguy cơ xóa sổ vĩnh
viễn vì Tàu cộng xâm lăng như hiện thời.
Bài
viết này là một nén hương lòng tưởng nhớ hàng vạn oan hồn biến cố Mậu
Thân, trong đó có 5 thầy dạy, 5 bạn học và nhiều thân nhân của người
viết, cũng như tưởng nhớ oan hồn của hàng triệu đồng bào nạn nhân từ khi
đảng VC xuất hiện (1930). Ngoài ra, đây cũng là lời kêu gọi đảng và nhà
cầm quyền CSVN hãy biết thành tâm nhận lỗi trước nhân dân, coi như một
bước đầu cho việc hòa giải hòa hợp Dân tộc thực sự. Thêm nữa, đây cũng
là lời
cảm tạ Thiên Chúa đã giữ cho tôi được sống đến ngày hôm nay để làm chứng
nhân cho cuộc thảm sát và cho nhiều chuyện khác trong xã hội VN cộng
sản. Bởi lẽ như đầu bài đã nói, nếu không vì hiểu khác mà VC tấn công
Huế đêm giao thừa Mậu Thân thì ắt hẳn sáng ngày mồng 1 Tết tôi đã phải
chạy lên trú ngụ tại nhà thờ Phủ Cam (để sau đó bỏ thây tại Khe Đá Mài),
thay vì về làng quê Dương Sơn (cách Huế khoảng 8km) ăn tết và đã khỏi
chung số phận với hơn 400 thanh niên hiền lành của giáo xứ Phủ Cam, nơi
tôi đã và đang sống.
Huế ngày 04-02-2018
Linh mục Phê-rô Phan Văn Lợi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét