Cao-Đắc Tuấn
- Tóm lược: Ca khúc "Tiếng Gọi Công Dân" được dùng
làm quốc ca của Việt Nam Cộng Hòa một cách hợp pháp qua các sự kiện
lịch sử và học thuyết pháp lý, và nói lên tinh thần dân tộc của
người miền Nam không có sự đố kỵ tác giả nhạc điệu, Lưu Hữu Phước,
là đảng viên cộng sản. Bài hát là một bài quốc ca bất hủ, có giai
điệu trầm bổng, hùng hồn, tiết tấu thay đổi, và lời ca có bố cục
chặt chẽ, phù hợp với nhạc điệu và dùng chữ hữu hiệu, đượm nét dân
tộc, kêu gọi toàn dân Việt Nam nổi dậy bảo vệ non sông và cứu nguy
đất nước. "Tiếng Gọi Công Dân" nên được dùng là biểu tượng quốc gia
cho Việt Nam, hoặc ít nhất là biểu tượng cho phong trào đấu tranh cho
tự do dân chủ tại Việt Nam.
***
Ca khúc
"Tiếng Gọi Công Dân" là bài quốc ca của Việt Nam trong thời kỳ Quốc
Gia Việt Nam (1948-1955) và miền Nam Việt Nam dưới thời Việt Nam Cộng
Hòa (Đệ Nhất và Đệ Nhị) (1956-1975). Tác giả bài hát này thường
được cho là Lưu Hữu Phước, nhưng thực ra bài "Tiếng Gọi Công Dân" chỉ
dùng nhạc điệu của bài "La Marche Des Étudiants" do Lưu Hữu Phước viết
nhạc, nhưng lời thì do Đài phát thanh Sài Gòn viết lại, khác đến 85%
phiên bản tiếng Việt sau này của Lưu Hữu Phước. Sự ra đời của "Tiếng
Gọi Công Dân" là quốc ca của Quốc Gia Việt Nam và Việt Nam Cộng Hòa
(VNCH) có nhiều chi tiết thú vị, nhất là vì Lưu Hữu Phước là đảng
viên đảng cộng sản Bắc Việt trong thời chiến tranh Nam Bắc. Những chi
tiết về lịch sử của "Tiếng Gọi Công Dân" sẽ được trình bàu
sau.
Tác giả
của "Tiếng Gọi Công Dân" gồm có Lưu Hữu Phước về âm nhạc và Đài phát
thanh Sài Gòn về lời nhạc. Vì tôi không rõ ai trong Đài phát thanh Sài
Gòn viết lại lời nhạc, sau đây tôi chỉ trình bày vắn tắt tiểu sử
của Lưu Hữu Phước (Wikipedia 2015h). Tuy nhiên, ta không nên quên sự đóng
góp của những người vô danh của Đài phát thanh Sài Gòn.
Lưu Hữu
Phước sinh năm 1921 tại tỉnh Cần Thơ. Khoảng cuối thập niên 1930, ông lên Sài
Gòn học tại trường Petrus Ký. Vào cuối năm 1939, ông sáng tác bài hát "La Marche
des Étudiants," và cùng Mai Văn Bộ đặt lời tiếng Pháp để làm bài hát chính thức
của Câu lạc bộ học sinh. Sau khi đỗ tú tài, Lưu Hữu Phước ra Hà Nội học trường
Y - Dược, thuộc Viện Đại học Đông Dương (1940-1944). Thời này, phong trào đấu
tranh chính trị của sinh viên Đông Dương rất mạnh mẽ. Lưu Hữu Phước nhanh chóng
trở thành một trong những thủ lĩnh của phong trào,
Năm 1944,
Lưu Hữu Phước tham gia Việt Minh và được giao phó những nhiệm vụ vận
động cách mạng. Sau đó, ông hoạt động với cộng sản Bắc Việt về các
lãnh vực văn hóa và âm nhạc. Sau năm 1975, ông làm Viện trưởng Viện Nghiên
cứu Âm nhạc (1978-1989), và đảm nhận nhiều chức vụ về văn hóa, giáo
dục, và nghệ thuật trong nhóm cầm quyền cộng sản. Ông mất năm 1989 tại
Sài Gòn.
Các tác
phẩm nổi tiếng của ông gồm có Tiếng Gọi Thanh Niên, Bạch Đằng Giang,
Hồn Tử Sĩ, Giải Phóng Miền Nam (ca khúc đại diện Việt
cộng).
Nguyên văn lời bài hát "Tiếng Gọi Công Dân"
như sau (Ban 2009):
Này công dân ơi! Quốc gia đến ngày giải
phóng
Đồng lòng cùng đi hy sinh tiếc gì thân
sống.
Vì tương lai quốc dân, cùng xông pha khói
tên,
Làm sao cho núi sông từ nay luôn vững
bền.
Dù cho thây phơi trên gươm
giáo,
Thù nước, lấy máu đào đem
báo.
Nòi giống lúc biến phải cần giải
nguy,
Người công dân luôn vững bền tâm
trí.
Hùng tráng quyết chiến đấu làm cho khắp
nơi
Vang tiếng người nước Nam cho đến muôn
đời!
Công dân ơi! Mau hiến thân dưới
cờ!
Công dân ơi! Mau làm cho cõi
bờ
Thoát cơn tàn phá, vẻ vang nòi
giống
Xứng danh nghìn năm giòng giống Lạc
Hồng!
Trong bài này, tôi sẽ trình bày bối cảnh và các diễn tiến lịch sử dẫn đến sự ra đời của "Tiếng Gọi Công Dân" và phân tích các khía cạnh pháp lý về việc ca khúc này được dùng là quốc ca của VNCH. Ngoài ra, như thường lệ, tôi sẽ thảo luận về các khía cạnh của bài hát, nội dung và hình thức. Tôi dùng "khán giả" để chỉ người nghe, người đọc, và người xem.
A. "Tiếng Gọi Công Dân" ra đời trong thời kỳ
sôi bỏng tại Đông Dương với sự hình thành của quốc gia Việt Nam độc
lập
Có
nhiều tài liệu viết về nguồn gốc của "Tiếng Gọi Công Dân" và các
tiền thân của bài hát (Xem, thí dụ như, Bạch 2014; Biển Nhớ; Nguyễn
Lưu Viên; Nguyễn Ngọc Huy), và có rất nhiều tài liệu lịch sử về
những biến cố và sự kiện xảy ra trong khoảng đầu thế kỷ 20 tại Đông
Dương và Việt Nam. Sau đây, tôi sẽ chỉ trình bày vắn tắt các khía
cạnh liên hệ đến Lưu Hữu Phước và "Tiếng Gọi Công Dân" là quốc ca của
Quốc Gia Việt Nam và VNCH.
Năm 1939
mở đầu thời kỳ dầu sôi lửa bỏng tại Đông Dương và thế giới khi Thế
Chiến II bùng nổ. Cuối năm này, Lưu Hữu Phước viết nhạc và Mai Văn Bộ
viết lời (tiếng Pháp) "La Marche des Étudiants."
Năm 1941,
Lưu Hữu Phước viết lời Việt và đổi tựa bài là "Tiếng Gọi Sinh Viên"
hay "Sinh Viên Hành Khúc," được Tổng hội Sinh Viên Đông Dương dùng là ca
khúc nghi lễ của Tổng hội. Có tài liệu cho biết Mai Văn Bộ và Nguyễn
Thành Nguyên viết lời Việt cho "Tiếng Gọi Sinh Viên" (Nguyễn Lưu Viên).
Năm 1941,
Hồ Chí Minh và các đồng chí thành lập Việt Minh là một tổ chức võ
trang phục vụ các mục tiêu cộng sản được Tàu cộng giao phó. Vì chủ
nghĩa cộng sản bị nguyền rủa bởi các thành phần quốc gia yêu nước,
Hồ và các đồng chí gian manh giở trò lừa đảo bằng cách ngụy trang
Việt Minh là một tổ chức quốc gia, chống Pháp (Cao-Đắc 2014). Biết bao
nhiêu người trẻ tuổi có lòng yêu nước đã bị Việt Minh lừa đảo để
tham gia hoặc ủng hộ Việt Minh. Đến khi họ khám phá ra bộ mặt thật
của Việt Minh là cộng sản, thì quá trễ vì họ đã dính líu quá sâu
vào những hoạt động cộng sản. Do đó, những người trẻ ái quốc này
"bị buộc phải hợp tác với đảng cộng sản" (Buttinger 1967, 266). Những chi
tiết về Việt Minh và mánh khóe của Hồ và các đồng chí đóng vai trò
quan trọng trong việc giải thích lý do tại sao Lưu Hữu Phước, tác giả
của một ca khúc kêu gọi sinh viên nổi dậy cho tổ quốc, sau này gia
nhập Việt Minh.
Ngày 11
tháng 3 năm 1945, vua Bảo Đại tuyên bố độc lập, thu hồi chủ quyền cho toàn
quốc Việt Nam. Chính phủ Trần Trọng Kim, thành lập ngày 17 tháng 4 năm
1945, mở đường cho một cuộc lấy quyền lực sau khi Nhật đầu hàng Đồng
Minh vào ngày 15 tháng 8 năm 1945.
Ngay sau
khi được thành lập, ngày 8 tháng 5 năm 1945, chính phủ Trần Trọng Kim
lựa chọn biểu tượng quốc gia, đổi tên nước thành Ðế Quốc Việt Nam và
chọn quốc kỳ nền vàng có một quẻ Ly màu đỏ ở giữa. Về quốc ca, có tài liệu
cho rằng quốc ca là bản "Việt Nam Minh Châu Trời Ðông" của nhạc sĩ Hùng Lân
(Nguyễn Ngọc Huy). Tuy nhiên, theo một số tài liệu, bản "Đăng Đàn Cung,"
bản quốc ca hoặc nhạc triều đình trước đó, vẫn được dùng là quốc ca
(Marr 1995, 121). Trong hồi ký ông, Trần Trọng Kim viết, "Bài quốc ca thì
từ trước vẫn dùng bài 'Ðăng Ðàn' là bài ca rất cổ, mà âm điệu nghe nghiêm trang.
Chúng tôi nghĩ: trước khi có bài nào hay hơn và có nghĩa lý hơn thì hãy cứ dùng
bài ấy" (Trần 1969, 60-61).
Tuy hiện
hữu chỉ trong một thời gian ngắn (Marr 1995, 351-352), chính phủ Trần
Trọng Kim có những đóng góp tích cực mở đường cho những hoạt động
xây dựng một đất nước hùng mạnh vừa mới được giành độc lập. Oái oăm
thay, cộng sản lợi dụng những đóng góp này trong việc cướp đoạt
chính quyền bất hợp pháp vào tháng 8 năm 1945 trong cái gọi là cách
mạng tháng tám (Cao-Đắc 2014). Dự án đáng nể nhất của chính phủ
Trần Trọng Kim là tổ chức giới trẻ và thanh niên. Vào ngày 25 tháng 5
năm 1945, một nghị định hoàng gia đặt ra một cơ cấu có thứ tự cho các
tổ chức thanh niên (Vu 1986, 309-310).
Quan
trọng nhất trong các tổ chức thanh niên là tổ chức Thanh niên Tiền
Phong (TNTP), được Thống đốc Nam Kỳ Minoda cho phép thành lập ngày 21 tháng 4
năm 1945 (Marr 1995, 134-135; Nguyễn Ngọc Huy; Wikipedia 2015c). TNTP là một
tổ chức thành lập dựa vào mô hình Hướng đạo Việt Nam và Tổng hội
sinh viên Đông Dương, và được sự giúp đỡ của chính phủ Trần Trọng Kim
dưới sự bảo trợ của Nhật (Wikipedia 2015c). TNTP có hàng vạn thành
viên lúc mới thành lập, tích cực tham gia các hoạt động xã hội như
tải thương nạn nhân bom đạn, giúp đỡ nạn đói (Marr 1995, 134; Nguyễn
Ngọc Huy). Trong dịp lễ tuyên thệ của TNTP vào tháng 7, 1945 tại Sài
Gòn, có 50.000 thành viên tham dự. Thành viên của ủy ban lãnh đạo TNTP
gồm có Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Văn Thủ, Trần Bửu Kiếm, Huỳnh Văn
Tiếng, Mai Văn Bộ, Lưu Hữu Phước, và Lê Văn Huấn (Marr 1995, 135;
Wikipedia 2015c). Cộng sản, dưới chiêu bài yêu nước do Việt Minh rêu rao,
xâm nhập vào các hội đoàn sinh viên và thanh niên (Marr 1995, 134-135,
217-218; Vu 1986, 309-310), dẫn đến việc TNTP sau này giải tán và nhiều
thành viên gia nhập Việt Minh.
Năm 1945,
TNTP sửa đổi thêm lời bài hát "Sinh Viên Hành Khúc" và đổi tựa bài
thành "Tiếng Gọi Thanh Niên" hay "Thanh Niên Hành Khúc" và dùng bài hát là
ca khúc của tổ chức (Wikipedia 2015b). Như sẽ được trình bày sau, vì
TNTP là một tổ chức thuộc chính phủ, ca khúc "Tiếng Gọi Thanh Niên"
trở thành ca khúc thuộc chính phủ Đế Quốc Việt Nam.
Ngày 7
tháng 12 năm 1947, Quốc Gia Việt Nam được thành lập và có nhiều nội các
chính phủ cho tới năm 1955. Nội các chính phủ trong thời Quốc Gia Việt
Nam thay đổi nhiều lần, bắt đầu với Nguyễn Văn Xuân (1948-1949) cho đến
Ngô Đình Diệm (1954-1955) (Wikipedia 2015a).
Năm 1948,
chính phủ Nguyễn Văn Xuân của Quốc Gia Việt Nam chọn bài "Thanh Niên Hành
Khúc" làm quốc ca với tên mới là "Tiếng Gọi Công Dân" hay "Công Dân Hành Khúc."
Theo Trần Văn Đôn, ông, Nguyễn Khánh, Lê Văn Kim, và Lê Văn Đức "đề nghị
thay lá cờ vàng chữ Ly có từ chánh phủ Trần Trọng Kim ra cờ vàng ba
sọc đỏ tượng trưng giòng máu dân của ba miền và lấy bài Thanh Niên
Hành Khúc của Lưu Hữu Phước làm Quốc ca vì lời ca hùng hồn"
(trích trong Hoàng 2002, 2177). Về Lưu Hữu Phước, Trần Văn Đôn viết,
"Lúc đó tôi nghĩ Lưu Hữu Phước cũng như bao nhiêu thanh niên yêu nước
khác đứng lên tranh đấu giành độc lập cho đất nước chứ chưa phải là
một đảng viên cộng sản. Hơn nữa bài ca này đã sáng tác trước ngày
Việt Minh lên nắm chánh quyền. Vì vậy mà Đại hội đồng ý chấp thuận
đề nghị của chúng tôi" (trích trong sđd.).
Ngày 23
tháng 10 năm 1955, Ngô Đình Diệm, bấy giờ là Thủ tướng, tổ chức một
cuộc cuộc trưng cầu dân ý truất phế Bảo Đại. Chính thể VNCH được
thành lập vào ngày 26 tháng 10 năm 1955. Tháng 3 năm 1956, chính phủ tổ
chức tổng tuyển cử bầu Quốc hội Lập hiến. Sau đó, "Quốc Hội Lập Hiến khai mạc
vào tháng 3 năm 1956 và có nhiệm vụ chọn quốc ca và quốc kỳ" (Biển Nhớ). Sau
khi xem xét và đánh giá các bài hát gửi cho tuyển chọn, Quốc hội Lập
Hiến quyết định không lựa bài mới nào, và "duy trì bài quốc ca mà các
chính phủ Nguyễn Văn Xuân và Nguyễn Văn Tâm đã chọn trước đó rồi ra lệnh cho
nhân viên Đài phát thanh Sài Gòn sửa lại lời ca" (sđd.). Đài phát thanh
Sài Gòn sửa chữa thêm để làm thành bản quốc ca của VNCH với tên gọi "Tiếng Gọi
Công Dân" và ca khúc này là quốc ca của hai nền Đệ Nhất và Đệ Nhị
Cộng Hòa tại Việt Nam cho tới năm 1975. Ca khúc "Tiếng Gọi Công Dân"
tiếp tục được duy trì là quốc ca của chính thể VNCH cho cộng đồng
người Việt hải ngoại sau ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Sau đây
là lời ca khúc "Tiếng Gọi Sinh Viên" và "Tiếng Gọi Thanh Niên." Tôi chỉ
trích phiên khúc gần giống nhất với bài "Tiếng Gọi Công Dân" cho so
sánh. Có nhiều phiên bản khác nhau và một bản có thể có nhiều phiên
khúc. Độc giả có thể tìm đọc thêm tại các tài liệu khác (Xem, thí
dụ như, ConHoiThoConDauTranh 2011; Wikipedia 2015b). Phần in đậm cho thấy
những chỗ khác với "Tiếng Gọi Công Dân."
"Tiếng Gọi Sinh Viên":
Này sinh viên ơi! Đứng lên đáp lời sông
núi!
Đồng lòng cùng đi, đi, đi mở đường khai
lối
Vì non sông nước xưa, truyền muôn năm chớ
quên,
Nào
anh em Bắc Nam! Cùng nhau ta kết đoàn!
Hồn
thanh xuân như gương trong sáng,
Đừng tiếc máu nóng, tài xin ráng!
Thời khó, thế khó, khó làm yếu ta,
Dầu
muôn chông gai vững lòng chi sá
Đường mới kíp phóng mắt nhìn xa bốn
phương,
Tung cánh hồn thiếu niên ai đó can
trường.
Sinh viên ơi! Ta quyết đi đến
cùng!
Sinh viên ơi! Ta thề đem hết
lòng!
Tiến lên đồng tiến! Vẻ vang đời
sống!
Chớ quên rằng ta là giống Lạc Hồng!
"Tiếng Gọi Thanh Niên":
Này
thanh niên ơi, tiến lên đến ngày giải phóng
Đồng
lòng cùng đi đi đi sá gì thân sống
Nhìn non sông nát tan thù nung tâm chí
cao
Nhìn muôn dân khóc than, hờn sôi trong máu
đào.
Liều thân xông pha ta tranh đấu
Cờ
nghĩa phất phới vàng pha máu
Cùng tiến quét hết những loài dã man
Hầu
đem quê hương thoát vòng u ám
Thề
quyết lấy máu nóng mà rửa oán chung
Muôn thuở vì núi sông nêu tiếng anh
hùng.
Anh em ơi mau tiến lên dưới
cờ
Thanh niên ơi quật cường nay đến
giờ
Tiến lên cùng tiến gió tung nguồn
sống
Cháy trong lòng ta ngàn mớ lửa hồng
Trong
phần sau đây, cho vắn tắt, tôi dùng "Sinh Viên," "Thanh Niên," và "Công
Dân" với các chữ "Tiếng Gọi" hoặc "Hành Khúc" được hiểu ngầm.
Toàn
bài "Thanh Niên" có 120 chữ. Trong số này, chỉ có 18 chữ là giống y
hệt với bài "Công Dân." Hai phiên bản, do đó, khác nhau 85%. Với mức độ
khác nhau quá nhiều, ta có thể coi như lời bài hát được hoàn toàn
viết lại bởi chính phủ Việt Nam Cộng Hòa.
B. Ca khúc "Tiếng Gọi Công Dân" dùng làm
quốc ca của VNCH một cách hợp pháp và nói lên tinh thần dân tộc của
người miền Nam:
Sự kiện
quốc ca của Quốc Gia Việt Nam và VNCH được viết bởi một đảng viên
cộng sản gây ra nhiều câu hỏi. Theo một số tài liệu, chính Lưu Hữu
Phước "từ năm 1949, đã viết thư kịch liệt phản đối mạnh mẽ về việc này" (Bạch
2014). Trong thời chiến tranh Nam Bắc, từ Hà Nội, Lưu Hữu Phước từng lên Đài
tiếng nói Việt Nam (Hà Nội) "liên tục bác bỏ, giễu cợt và cả mắng nhiếc về việc
bài hát Sinh Viên Hành Khúc của ông 'vẫn cứ bị người bên kia chiến tuyến sử dụng
vào một mục đích khác!' "(sđd.).
Câu hỏi
đặt ra là sự chống đối của Lưu Hữu Phước có chính đáng không, và
chính phủ VNCH có hành động đúng khi dùng nhạc của một đảng viên
cộng sản là nhạc cho quốc ca. Câu trả lời ngắn là sự chống đối của
Lưu Hữu Phước hoàn toàn vô giá trị và chính phủ VNCH hành động hợp
pháp khi dùng nhạc của ông là quốc ca của VNCH, như được trình bày sau
đây.
1.
Lưu Hữu Phước đã nhường, hoặc mất, quyền sở hữu ca khúc "Tiếng Gọi
Thanh Niên" cho Đế Quốc Việt Nam, Quốc Gia Việt Nam, và VNCH từ năm
1945:
Có hai
khía cạnh pháp lý xác định Lưu Hữu Phước đã mất quyền sở hữu ca
khúc "Thanh Niên" và nhạc điệu cho ca khúc "Công Dân" cho Đế Quốc Việt
Nam, Quốc Gia Việt Nam, và VNCH: (1) TNTP là một tổ chức thuộc Đế Quốc
Việt Nam, và (2) Học Thuyết Ngăn Chận không cho phép Lưu Hữu Phước phản
đối việc dùng nhạc của ông.
Thảo
luận về các khía cạnh pháp lý về vấn đề bản quyền của Lưu Hữu
Phước ra ngoài phạm vi của bài này, vì nó đòi hỏi tìm tòi về luật
bản quyền tại Việt Nam vào năm Lưu Hữu Phước viết nhạc cho bài "La
Marche des Étudiants." Ta không rõ lúc bấy giờ có luật bản quyền hay
không, và nếu có, các điều luật đó như thế nào. Tuy nhiên, việc đó
thực ra không quan trọng, vì cho dù Lưu Hữu Phước có bản quyền lúc ông
sáng tác bài "La Marche des Étudiants," ông đã nhường, hoặc mất, quyền
đó lại cho Tổng hội Sinh viên Đông Dương và tổ chức TNTP, cũng như nhạc sĩ
Văn Cao đã nhường quyền sở hữu ca khúc "Tiến Quân Ca" cho Việt Minh năm
1944.
a, Tổ
chức TNTP là một tổ chức thuộc Đế Quốc Việt Nam và do đó ca khúc
"Thanh Niên" của tổ chức này thuộc về Đế Quốc Việt Nam.
Vào
tháng 7, 1945, một phái đoàn 38 người của TNTP ra Huế để gặp vua Bảo
Đại. Bảo Đại phong Phạm Ngọc Thạch, người đứng đầu phong trào TNTP,
là đại diện về thanh niên cho chính phủ hoàng gia tại miền Nam (Marr
1995, 135). Chi tiết này rất quan trọng vì nó thiết lập căn bản pháp
lý của TNTP: đó là một cơ quan thuộc Ðế Quốc Việt Nam và hoạt động
dưới sự bảo trợ của chính phủ Trần Trọng Kim.
TNTP là
một tổ chức bán quân sự (paramilitary). Thành viên được huấn luyện
dùng vũ khí, mặc đồng phục (áo trắng, quần short sẫm) (Marr 1995, 134,
381), có cờ và ca khúc chính thức ("Thanh Niên"), có quyền cho thẻ căn
cước trong một số vùng (Marr 1995, 135). Để có thể hoạt động với phạm
vi và thẩm quyền như vậy, TNTP phải có một qui chế hiện hữu chính
thức và ngân quỹ dồi dào. Quy chế và tài trợ đó chỉ có thể đến từ
chính phủ Trần Trọng Kim của Ðế Quốc Việt Nam. Do đó, những sản phẩm
hoặc kết quả của TNTP đương nhiên là thuộc về Ðế Quốc Việt Nam. Vì vậy,
khi Lưu Hữu Phước để ca khúc "Thanh Niên" dùng bởi TNTP là ca khúc của
tổ chức, ông đã mặc nhiên nhường quyền sở hữu ca khúc đó cho Ðế Quốc
Việt Nam, và Ðế Quốc Việt Nam (sau này được thừa kế bởi Quốc Gia Việt
Nam và VNCH theo luật thừa kế của các thực thể quốc gia) có sở hữu
ca khúc "Thanh Niên" từ lúc TNTP dùng ca khúc này, vào khoảng tháng 7
năm 1945, hoặc sớm hơn.
Cho dù
sau này tổ chức TNTP giải tán và gia nhập Việt Minh, sự kiện vẫn rõ
ràng là ca khúc "Thanh Niên" đã trở thành tiếng nói của Ðế Quốc Việt
Nam vào tháng 7 năm 1945, hoặc sớm hơn, trước ngày Việt Minh cướp chính
quyền vào tháng 8, 1945. Ngoài ra, cho dù Lưu Hữu Phước không đồng ý
để ca khúc "Thanh Niên" là ca khúc chính thức của TNTP (một giả thiết
hầu như không thể có được vì ông nằm trong ban lãnh đạo của tổ chức
này), ông đã mất quyền sở hữu ca khúc này qua hành động im lặng và
không phản đối của ông khi ca khúc đó được dùng rộng rãi khắp nơi,
theo một học thuyết pháp lý trình bày sau đây.
b, "Học
Thuyết Ngăn Chận" không cho phép Lưu Hữu Phước phản đối việc dùng nhạc
của "Thanh Niên" là nhạc quốc ca VNCH:
Không có
tài liệu nào cho thấy Lưu Hữu Phước phản đối việc các tổ chức này
dùng ca khúc "Sinh Viên" hoặc "Thanh Niên" là ca khúc nghi lễ của tổ
chức trong khoảng thời gian các phiên bản được lưu hành và trình diễn
công cộng từ năm 1941 đến năm 1949. (Lưu Hữu Phước chỉ mới bắt đầu
phản đối từ 1949.) Sự không phản đối, hoặc im lặng, của Lưu Hữu Phước
trước biết bao nhiêu việc dùng công khai nhạc của ông, cho thấy ông đã
nhường quyền về nhạc ca khúc này cho công chúng. Do đó, Lưu Hữu Phước
đã hoàn toàn mất quyền sở hữu về ca khúc "Sinh Viên" trong khoảng năm
1940-1945. Khi một tác phẩm trở thành tác phẩm cho vùng công chúng,
theo luật pháp hoặc do hành động của tác giả (rõ rệt hoặc hàm ý),
ai cũng có quyền dùng tác phẩm đó mà không cần phải có sự thỏa
thuận của tác giả.
Trong
luật pháp, một học thuyết căn bản về việc bị mất quyền lợi là "Học
Thuyết Ngăn Chận" (Doctrine of Estoppel). Chữ "estoppel" có nghĩa là bị
chặn lại. Người Norman dùng từ ngữ Pháp "estoupail" có nghĩa là nút
thùng, lọ (bung) hay nút chai (cork) dùng để ngăn chận cái gì không cho
ra (Duhaime). Học thuyết này đã có từ thế́ kỷ 15 xuất pháp từ Anh
(sđd.), được đặt ra để tránh bất công do lừa đảo hoặc không phù
hợp, thống nhất. Tôi không thể đi sâu vào học thuyết này vì những lý
thuyết phức tạp về luật pháp, nhưng có thể trình bày các điểm
chính.
Một
cách vắn tắt, Học Thuyết Ngăn Chận không cho phép một người chối bỏ
cái gì đã được thiết lập là sự thật qua hành động của viên chức tư
pháp hay lập pháp, hoặc qua ngay chính hành động của người đó, rõ
rệt hoặc hiểu ngầm (Wikipedia 2015e). Khi học thuyết này áp dụng cho
các vấn đề về tài sản hoặc sở hữu (kể cả tài sản trí tuệ),
thường có ba nhánh dựa vào: im lặng (acquiescence), diễn tả
(representation), và lời hứa (promise) (McFarlane 2014, 3). Nhánh dựa vào
im lặng có lẽ thích hợp nhất trong trường hợp Lưu Hữu Phước vì ta
chưa có bằng chứng rõ rệt cho sự diễn tả hoặc lời hứa của ông với
các tổ chức liên hệ, nhưng ta có bằng chứng rõ rệt về sự im lặng
của ông.
Học
Thuyết Ngăn Chận dựa vào im lặng có thể được giải thích như sau. Khi B
làm những hành động dựa vào sự tin tưởng lầm lẫn rằng quyền nào đó
của A là thuộc về B; và A, biết đến hành động này của B, giữ im
lặng và không đòi lại quyền của mình, thì A bị mất quyền đó nếu B
chịu thiệt thòi khi phải trả lại A quyền đó (McFarlane 2014, 3).
Đem vào
trường hợp của Lưu Hữu Phước, giả sử ông không có ý định cho Tổng
hội Sinh Viên Đông Dương dùng ca khúc "Sinh Viên" hoặc tổ chức TNTP dùng
ca khúc "Thanh Niên." (Nếu ông có ý định nhường quyền cho vùng công
chúng và để các tổ chức tùy nghi dùng nhạc điệu hoặc ca khúc "Sinh
Viên" thì không còn vấn đề bàn cãi nữa.) Tổng hội dùng ca khúc đó
dựa vào sự tin tưởng lầm lẫn về quyền của hội là được ông cho phép.
Lưu Hữu Phước là thành phần lãnh đạo trong Tổng hội Sinh Viên và TNTP.
Do đó đương nhiên ông biết hành động này của hai tổ chức, nhưng ông
không phản đối, và giữ im lặng trong suốt những năm từ 1941 (khi Tổng
hội Sinh Viên Đông Dương công khai dùng ca khúc "Sinh Viên" là ca khúc nghi
lễ của hội), qua năm 1945 (khi tổ chức TNTP dùng ca khúc "Thanh Niên" là
ca khúc của tổ chức), qua năm 1948 khi chính phủ Nguyễn Văn Xuân sửa
lại lời nhạc và dùng ca khúc "Công Dân" là quốc ca của Quốc Gia Việt
Nam. Sự im lặng của ông là bằng chứng cụ thể cho thấy ông đã nhường
quyền sở hữu cho Tổng hội và TNTP, và đã tước ông quyền sở hữu của
nhạc điệu trong ca khúc "Thanh Niên" ngay từ năm 1941, hoặc ít nhất là
năm 1945. Chỉ đến năm 1949, Lưu Hữu Phước mới bắt đầu phản đối việc ca
khúc "Công Dân" là quốc ca của Quốc Gia Việt Nam. Lúc bấy giờ, mọi
việc đã quá trễ. Các tổ chức này không thể trả lại quyền sở hữu
đó cho ông vì họ sẽ bị thiệt thòi do sự đầu tư tài chánh, nhân sự,
biểu tượng, tiếng tăm cho bài hát. Do đó, Lưu Hữu Phước đã mất quyền
sở hữu bài hát và bị ngăn chận đòi lại quyền đó. và lời phản đối
của ông trở nên vô giá trị. Tám năm trời im lặng là một khoảng thời
gian quá dài.
Tuy Học
Thuyết Ngăn Chận là học thuyết mới, các lý lẽ pháp luật và nguyên
tắc công bằng hiện hữu từ hàng trăm năm. Vì không có vụ kiện nào liên
hệ đến vấn đề này, ta không rõ tòa sẽ xử thế nào; nhưng điều chắc
chắn là nếu có, một tòa án công minh sẽ dùng các nguyên tắc công
bằng.
Vì nhạc
điệu của "Thanh Niên" của Lưu Hữu Phước đã thuộc về Đế Quốc Việt Nam
qua sự im lặng của ông, VNCH có quyền dùng nhạc điệu đó mà không cần
sự thỏa thuận của ông. Ngoài ra, quốc gia VNCH có bản quyền trên lời
ca "Công Dân" vì lời ca khác hẳn lời ca của "Thanh Niên" đến 85%. Do đó,
sự phản đối của Lưu Hữu Phước sau này về nhạc điệu của "Công Dân"
hoàn toàn vô giá trị, và lại còn vô giá trị hơn với lời
ca.
2.
Quốc Gia Việt Nam và VNCH không hề đạo nhạc của Lưu Hữu Phước vì tên
ông luôn luôn được ghi nhận rõ rệt:
Một số
người cộng sản kết tội một cách ngu xuẩn là chính phủ VNCH ăn cắp
nhạc của Lưu Hữu Phước cho bài quốc ca. Những lời kết tội này không
những vô căn cứ theo lịch sử nguồn gốc bài hát như trình bày ở trên,
mà còn phản ảnh sự kém hiểu biết về ăn cắp văn chương và đạo
văn.
Ăn cắp
văn học hoặc văn chương (literary theft) là một hành động ăn cắp tác phẩm văn
học của người khác. Ăn cắp văn học cũng có thể gọi là đạo văn (plagiarism), mặc
dù ăn cắp văn học có thể có một phạm vi rộng hơn so với đạo văn. Trên thực tế,
ăn cắp văn học và đạo văn được dùng thay thế lẫn nhau. Đạo văn tránh chữ "ăn
cắp" hay "đánh trộm" nhưng nó có cùng nghĩa. "Plagiarism" có gốc từ chữ
"plagiarus," một chữ Latin có nghĩa là "bắt cóc nô lệ" (Pappas 1998, 31). Các
hành vi đạo văn tương tự như hành vi bắt cóc, hoặc ăn cắp, công trình người
khác. Có nhiều định nghĩa cho đạo văn từ một số nguồn tài liệu (Xem, thí
dụ như, Johnson, 1755, trích dẫn trong Mallon 1989, 11; từ điển tiếng Anh
Oxford, trích dẫn trong Stearns 1999, 17; Stearns 1999, 7; Wikipedia 2015g).
Đại khái, đạo văn là "cố ý lấy tài sản văn học của người khác mà không ghi
công và mạo nhận nó là của riêng mình" (Stearns 1999, 7). Điểm chính của
đạo văn là "mạo nhận là của chính mình" hay "trình bày như của chính
mình," nghĩa là tạo ấn tượng cho người khác khiến họ tưởng thủ phạm là
tác giả.
Đạo văn
là một khái niệm đạo đức hay luân lý hơn là một khái niệm pháp luật. Tại Hoa
Kỳ, không có luật liên bang chống lại hành vi ăn cắp văn học hoặc đạo văn. Các
tổ chức tư nhân hoặc công cộng (thí dụ, cơ quan giáo dục, trường học) có
thể đặt ra các quy tắc riêng và biện pháp kỷ luật đối với hành vi đạo văn
dưới khuôn kh̀ổ của các tổ chức đó. Ngoài ra, đạo văn và vi phạm bản
quyền là hai khái niệm khác nhau. Đạo văn có thể hoặc không thể dẫn đến vi
phạm bản quyền, và ngược lại.
Thông
thường, đạo văn dính líu chỉ vài đoạn văn, và nhiều khi chỉ vài câu.
Một trường hợp đạo văn trở thành toàn diện hay tột độ là khi kẻ đạo
văn ăn cắp toàn bộ tác phẩm của người khác và xưng là của mình.
Trường hợp này rất hiếm có vì mức độ gian xảo cực độ và rất ít
có người nào mặt dầy mặt dạn dám có gan làm những chuyện kinh khủng
như vậy. Tuy nhiên, trong lịch sử nhân loại, có một kẻ đã làm chuyện
đó. Đó là Hồ Chí Minh. Hồ đạo văn toàn diện ít nhất ba văn bản:
"Thỉnh nguyện thư của dân tộc An Nam" (Xem, thí dụ như, Quinn-Judge
2002, 18), "Bản Án Chế độ Thực Dân Pháp" (Xem, thí dụ như, Thụy 2012,
560-562), và "Nhật Ký Trong Tù" (Xem, thí dụ như, Lê 1990). Có
thể cái "văn hóa đạo văn" này đã thấm nhuần trong thành phần cộng
sản theo gương Hồ, nên nhiều người cộng sản tưởng ai cũng như họ, kết
tội chính phủ VNCH đạo nhạc của Lưu Hữu Phước.
Quốc Gia
Việt Nam và VNCH không hề mạo nhận tác giả, hoặc tạo ấn tượng cho
người khác khiến họ tưởng tác giả quốc ca là người đang phục vụ
trong miền Nam. Ngược lại, Quốc Gia Việt Nam ngay từ thời chính phủ
Nguyễn Văn Xuân năm 1948 và VNCH luôn luôn ghi rõ tác giả ca khúc "Công
Dân" là Lưu Hữu Phước. Việc ghi rõ tên tác giả Lưu Hữu Phước cho thấy
Quốc Gia Việt Nam và VNCH không ăn cắp nhạc hoặc đạo nhạc của Lưu Hữu
Phước. Không những thế, chính phủ VNCH lúc nào cũng cho Lưu Hữu Phước
cái danh dự là tác giả của quốc ca VNCH cho dù ông chỉ là tác giả
của nhạc điệu và không phải là tác giả của lời nhạc. Về việc bản
quyền, như đã trình bày trên, cho dù Lưu Hữu Phước có bản quyền, ông
đã bị mất bản quyền này và nhường quyền lại cho VNCH.
3.
Việc dùng nhạc của Lưu Hữu Phước cho quốc ca của VNCH cho thấy tinh
thần dân tộc của người miền Nam Việt Nam đối với toàn dân
Việt:
Miền Nam
không thiếu nhân tài viết nhạc cho quốc ca, như đã được chứng tỏ qua
kho tàng nhạc vàng vô giá tại miền Nam trước năm 1975. Chính phủ
Nguyễn Văn Xuân, Quốc hội thời Đệ Nhất Cộng Hòa, và chính phủ Đệ
Nhị Cộng Hòa không câu nệ sự kiện tác giả nhạc điệu của bài quốc ca
là người ở "phe bên kia" mà vẫn tiếp tục dùng nhạc điệu này, vì lúc
ông sáng tác bản nhạc, "Lưu Hữu Phước cũng như bao nhiêu thanh niên yêu
nước khác đứng lên tranh đấu giành độc lập cho đất nước chứ chưa phải
là một đảng viên cộng sản" (trích lời Trần Văn Đôn, trong Hoàng 2002,
2177). Điều đó cho thấy người miền Nam không có sự đố kỵ, hận thù,
lòng dạ nhỏ nhen, mà ngược lại còn cho thấy tinh thần dân tộc và
thương yêu đồng bào. Tinh thần dân tộc này thể hiện bản chất nhân bản,
khai phóng, và yêu thương đồng bào, không phân biệt Nam Bắc, của người
miền Nam không cộng sản.
Ngược
lại, chắc chắn nhóm cầm quyền cộng sản Bắc Việt không bao giờ dùng
nhạc viết bởi nhạc sĩ của Quốc Gia Việt Nam hoặc VNCH, cho dù những
bài đó không dính dáng gì đến chính trị hoặc đả kích cộng sản.
Lòng dạ nhỏ nhen, bụng tiểu nhân, mặc cảm tự ti, và đầu óc chia rẽ
hận thù của nhóm cầm quyền cộng sản Bắc Việt đã được biết rõ khi
chúng cấm đoán nhạc miền Nam ngay cả sau khi chúng chiếm đoạt được
miền Nam năm 1975.
Ta cũng
nên hiểu Lưu Hữu Phước có thể bị nhóm cầm quyền cộng sản Bắc Việt
bắt buộc lên tiếng phản đối, vì khó tin một nhạc sĩ, thay vì hãnh
diện, lại có thái độ bực bội việc tác phẩm mình được dùng cho một
mục đích cao cả là quốc ca của một quốc gia. Ngoài ra, Lưu Hữu Phước
lên tiếng phản đối vào năm 1949, khi Ngô Đình Diệm chưa làm Thủ tướng,
và Mỹ chưa đặt chân lên miền Nam. Do đó, bảo rằng Lưu Hữu Phước phản
đối vì miền Nam phục vụ đế quốc Mỹ là hoàn toàn sai
lầm.
C. "Tiếng Gọi Công Dân" có bố cục chặt chẽ,
là lời kêu gọi toàn dân đứng lên tranh đấu cho quốc gia thoát khỏi cơn
nguy biến.
Quốc kỳ
và quốc ca là khí cụ hữu hiệu giúp dân ràng buộc với nhau và là hai
biểu tượng quan trọng nhất cho một quốc gia. Vì là biểu tượng quốc
gia, quốc kỳ và quốc ca có vai trò thiêng liêng và cao cả trong việc
lôi kéo toàn dân vào nhau. Ngoài ra, quốc ca thường được trình bày
trong những dịp long trọng hoặc nghiêm trang. Để tạo không khí nghiêm
trang và nhấn mạnh tinh thần quốc gia, rất quan trọng là quốc ca có
nhạc điệu hùng hồn, tha thiết, dễ hát, và lời ca khơi động lòng yêu
nước của toàn dân. Ca khúc "Tiếng Gọi Công Dân" có đầy đủ những tính
chất đó ở mức độ cao, và là một bài quốc ca bất hủ.
Kelen
(2015, 71) phân loại ra ba loại quốc ca dựa vào nội dung lời ca: (1) bài
hát "hành khúc" hoặc thúc giục, thí dụ như "La Marseillaise" (Pháp);
(2) hoạt cảnh tự chúc mừng (bức tranh của một quốc gia xứng đáng),
như "Advance Australia Fair" (Úc) hoặc "The Star-Spangled Banner" (Hoa Kỳ);
và (3) ca khúc cầu nguyện, tha thiết đến thần thánh, như "God Save the
King/Queen" (Anh). Có nhiều quốc ca có chút ít mỗi phần, hoặc không
thích hợp với các loại này. "Công Dân" có đủ cả ba loại đó. Là bài
"hành khúc," "Công Dân" thúc giục người dân hy sinh cho tổ quốc và hiến
thân dưới cờ. Là bài ca ngợi quốc gia xứng đáng, "Công Dân" ca ngợi
tiếng tăm người Nam vang khắp nơi và cho đến muôn đời và nòi giống vẻ
vang. Là bài tha thiế́t đến thực thể thiêng liêng, "Công Dân" nhắc nhở
lịch sử mấy ngàn năm của giòng giống Lạc Hồng.
Một
cách độc đáo, tuy lời ca "Tiếng Gọi Công Dân" được viết năm 1956, nội
dung có một bố cục chặt chẽ, mạch lạc, và có luận lý, đi theo thể
thức một bài phân tích pháp luật. Hầu hết các bài viết phân tích
pháp luật, bài thi luật, hoặc bài tóm tắt phân tích các vụ kiện tố
tụng đều theo một thể thức nào đó. Các thể thức này đặt ra để giúp
bài viết sáng sủa, mạch lạc, và có những chú trọng thích
hợp.
Tại Hoa
Kỳ, có nhiều thể thức viết cho các bài luận pháp lý, như IRAC, CRRACC
(Xem, thí dụ như, CUNY; Wikipedia 2015i). Đại khái, thể thức IRAC (Issue,
Rule, Analysis, Conclusion) gồm có bốn phần: Issue (Đặt vấn đề), Rule
(Phát biểu luật/ quy tắc), Analysis/ Application (Phân tích/ Áp dụng/
Diễn giải), và Conclusion (Kết luận). Sau đây là một thí dụ một bài
viết về một vấn đề pháp luật theo thể thức IRAC (đây chỉ là một thí
dụ đơn giản và không phải là một bài viết phản ảnh thực
tế):
1)
Đặt vấn đề: Vấn đề đặt ra là Nguyễn Văn X có phạm tội giết
người không?
2)
Phát biểu luật/ quy tắc: Theo luật hình sự California, luật
187(a), hình luật giết người là giết bất hợp pháp một người hay một
bào thai với chủ ý phạm tội.
3)
Phân tích/ Áp dụng/ Diễn giải: Nguyễn Văn X. mang dao giấu trong
người và ngồi chờ nạn nhân đến quán ăn. Theo vụ California v.
Trần Z., khi một người giấu vũ khí trong người và ngồi chờ,
người đó có chủ tâm phạm tội. Ở đây, X. gói con dao trong bao ny lông,
và nhét trong bụng, rõ ràng giấu giếm vũ khí. X. ngồi trong quán
không ăn gì mà chỉ uống đá lạnh trong nửa tiếng, cho thấy X. chờ đợi
nạn nhân. Do đó, X có ý định giết người với chủ ý phạm tội. Khi nạn
nhân đến quán ăn, X bước tới bàn nạn nhân và móc dao ra chém nạn nhân
liên tiếp cả chục nhát vào mặt, cổ, ngực, và bụng. Nạn nhân ngã
xuống đất và chết ngay tại chỗ. Hành động của X giết chết nạn nhân
một cách bất hợp pháp. Bào chữa cho X. có thể dựa vào lý thuyết cơn
điên mãnh liệt vì nạn nhân là người tình của vợ X. Tuy nhiên, dựa vào
vụ California v. John Smith, bào chữa này không có căn bản
vì X. thiếu ít nhất hai yếu tố: bị thách thức đột nhiên và hành
động nhất thời trong một giây phút nóng gíận quá độ.
4)
Kết luận: Nguyễn Văn X. phạm tội giết người dựa vào hình luật
187(a).
Bài
"Công Dân" có bố cục theo đúng thể thức IRAC ở trên như sau:
1)
Đặt vấn đề: Người dân phải làm gì khi "quốc gia đến ngày gỉải
phóng"?
2)
Phát biểu luật/ quy tắc: Nhiệm vụ của người dân là bảo vệ
"tương lai quốc dân" và "núi sông từ nay luôn vững bền."
3)
Phân tích/ Áp dụng/ Diễn giải: Người dân phải biết hy sinh "dù
cho thây phơi trên gươm giáo," và phải "lấy máu đào đem báo" cho "thù
nước." Ngoài ra, người dân phải biết "giải nguy" cho đất nước "lúc
biến," "vững bền tâm trí" và "hùng tráng quyết chiến đấu" để "tiếng người
nước Nam" vang "khắp nơi" "cho đến muôn đời."
4)
Kết luận: Hỡi dân chúng, hãy "mau hiến thân dưới cờ" và "mau làm
cho cõi bờ thoát cơn tàn phá," cho "vẻ vang nòi giống" và "xứng danh nghìn năm
giòng giống Lạc Hồng!"
Với bố
cục chặt chẽ đó, ý tưởng trong "Công Dân" trôi chảy mạch lạc và rất
dễ hiểu.
Bài hát
mở đầu với lời xác định vấn đề nghiêm trọng của quốc gia khi đất
nước đã đến thời kỳ thoát ly ra khỏi những gông cùm của nô lệ và tăm
tối ("Này công dân ơi! Quốc gia đến ngày giải phóng"). Câu hỏi ngầm
là người dân phải làm gì khi quốc gia đến ngày giải phóng. Câu trả
lời nhanh là mọi công dân hãy cùng ra đi dấn thân và hy sinh cho quê
hương ("Đồng lòng cùng đi hy sinh tiếc gì thân sống").
Ngày
phần mở đầu, câu "Này công dân ơi!" tương phản rõ rệt với
câu "Đoàn quân Việt Nam đi" trong ca khúc "Tiến Quân Ca" của
nhạc sĩ Văn Cao, và là quốc ca của cộng sản Bắc Việt và sau này gán
đặt lên Việt Nam (Wikipedia 2015f). Trong khi "Này công dân ơi!" là
lời kêu gọi êm ái tới đồng bào dân chúng cùng đứng lên bảo vệ non
sông, câu "Đoàn quân Việt Nam đi" vẽ ra hình ảnh binh lính đi bắn
giết quân thù nơi sa trường dưới lá cờ hình máu của chiến thắng. Chỉ
với câu mở đầu này, ta thấy "Công Dân" xứng đáng là quốc ca của Việt
Nam hơn "Tiến Quân Ca" vì "Công Dân" kêu gọi toàn dân, chứ không phải quân
đội.
Ta phải
hiểu "đến ngày" trong câu "Quốc gia đến ngày giải phóng" không
có nghĩa là ngày đó đã được định trước mà có nghĩa là đã đến lúc
giải thoát quốc gia ra khỏi tù túng. Cho dù tù túng, gông cùm, hay tăm
tối, tình trạng đã chín mùi cho cuộc nổi dậy. Một cách tiên tri,
câu "Quốc gia đến ngày giải phóng" nói lên thực trạng của Việt Nam
hiện nay khi nhóm cầm quyền cộng sản đem chủ thuyết ngoại bang là gông
cùm đặt lên đầu lên cổ người dân.
Có phiên
bản dùng "Đứng lên đáp lời sông núi" thay vì "Quốc gia đến ngày
giải phóng." Đây là sự sai lầm vô tình hay cố ý (có thể vì dị ứng
với từ ngữ "giải phóng"). Câu "Ðứng lên đáp lời sông núi" là câu
trong "Sinh Viên" và không phải trong "Công Dân." Việc đó rất rõ ràng vì
câu kế tiếp ".. thân sống" không vần với "sông núi" mà vần
với "giải phóng." Sai vần thực sự không quan trọng. Cái sai lầm
kế là cách dùng cú pháp lệch lạc. Như sẽ trình bày sau, chữ "này"
trong tiếng Việt rất tinh tế. Khi bạn nói với ai với chữ mở đầu "Này
..." (thí dụ, "Này anh ơi,"), bạn không có ý định thúc giục hoặc kêu
gọi người đó làm chuyện gì. Chữ "này" mở đầu một câu nói chuẩn bị
cho lời giảng giải, cắt nghĩa, phân trần, nhắn nhủ, hoặc biểu lộ cảm
nghĩ, tình trạng nào đó. Thí dụ, "Này anh ơi, bây giờ kinh tế khó
khăn,..." Bạn không dùng "này" để thúc giục hoặc kêu gọi. Câu "đứng
lên đáp lời sông núi" là một lời thúc giục, kêu gọi, và do đó
không thể đặt sau câu "Này công dân ơi!" Quan trọng hơn, câu "Quốc
gia đến ngày giải phóng" đóng vai trò một câu đặt vấn đề như trình
bày ở trên. Nếu không có câu này, ta sẽ không hiểu vấn đề ở đâu mà
ra, tại sao phải "đứng lên đáp lời sông núi" hoặc "hy sinh
tiếc gì thân sống," v.v... Quan trọng nhất, ta
không nên sửa đổi lời bài quốc ca đã được dùng trong suốt hai mươi năm
của VNCH trước 1975, vì đó là một văn bản có giá trị lịch sử và
quốc gia.
Vào năm
1960, cộng sản Bắc Việt tạo ra "Mặt trận giải phóng miền Nam" (MTGPMN)
với mục đích xâm lăng miền Nam theo lệnh Tàu cộng, khiế́n "giải
phóng" có ý nghĩa tang tóc, chém giết, cướp bức, đàn áp, và mang
theo tính chất dã man, vô nhân đạo, và ngu xuẩn. Ngày 30 tháng 4 năm
1975, cộng sản chiếm đóng miền Nam dưới chiêu bài "giải phóng"
và sau đó lại còn đem ý nghĩa đau thương, tang tóc, hận thù cho chữ
"giải phóng." Tuy nhiên, ta không nên dị ứng với chữ "giải
phóng" vì "giải phóng" có ý nghĩa cao cả vào lúc lời nhạc
được ghi. (Xin các vị Chống-Chống Cộng đừng hăm hở nhào vô và kết
tội tôi là cổ võ dùng từ ngữ cộng sản.) Lời nhạc cho ca khúc "Công
Dân" được viết vào năm 1956, bốn năm trước khi MTGPMN được thành lập. Do
đó ý nghĩa "giải phóng" phải được suy diễn trong tình huống
thời cục lúc ấy. Bấy giờ, miền Nam Việt Nam là một quốc gia hoàn
toàn độc lập và có chủ quyền trên khắp lãnh thổ miển Nam. Do đó,
"giải phóng" không thể có ý nghĩa hạn hẹp là giành độc lập
hoặc thoát khỏi cai trị của ngoại bang. "Giải phóng" theo ý
nghĩa lúc lời nhạc "Công Dân" được viết lại vào năm 1956 hàm ý giải
thoát khỏi gông cùm của bất cứ gì cản trở sự tiến hoá của con
người trong hiện tại và tương lai, kể cả bảo thủ, độc tài, lệ thuộc
ngoại bang, nô lệ, tăm tối, hoặc ngu si. Ta không nên "tẩy chay" từ ngữ
"giải phóng" chỉ vì cộng sản lạm dụng và cho nó một ý nghĩa
xấu xa. Nhóm cầm quyền cộng sản đã thao túng và làm suy đồi nền văn
hóa Việt Nam qua sự ngu dốt, lạm dụng, và đã khiến một số từ ngữ
bị "tai tiếng." Nhưng ta không thể để cộng sản giết chết những từ ngữ
này.
Trở về
bài hát, lời nhắn nhủ công dân tiếp tục. Cuộc hy sinh là vì tương lai
của toàn dân nên mọi người hãy cùng nhau xông pha nơi lằn tên mũi đạn
để giữ gìn non sông được bền vững ("Vì tương lai quốc dân, cùng xông
pha khói tên/ Làm sao cho núi sông từ nay luôn vững bền"). Câu "núi sông
từ nay luôn vững bền" cho thấy ý chí bảo tồn lãnh thổ toàn vẹn.
Theo đúng ý chí đó, quân lực VNCH (QLVNCH) đã luôn luôn tích cực chống
trả mãnh liệt mưu đồ xâm lấn của ngoại bang. Cuộc chiến giữa QLVNCH
và Tàu cộng tại Hoàng Sa năm 1974 cho thấy ý chí can trường
đó.
Cho dù
phải chết phơi thây trên gươm giáo nhưng vì thù nước, người dân phải
lấy máu đổi máu, báo thù bằng chính máu đỏ của mình ("Dù cho thây
phơi trên gươm giáo/ Thù nước, lấy máu đào đem báo"). Câu "Dù cho thây
phơi trên gươm giáo" tương phản rõ rệt với câu "Đường vinh quang xây
xác quân thù" trong bài "Tiến Quân Ca," quốc ca của cộng sản Bắc
Việt và sau này gán đặt lên Việt Nam. Trong khi VNCH kêu gọi toàn dân hy
sinh cho tổ quốc, cho dù phải hy sinh tánh mạng như cha ông tổ tiên đã
làm, nhóm cầm quyền cộng sản chỉ kêu gọi binh lính họ chém giết quân
thù, một hình ảnh khát máu khác hẳn với bản chất hiền hòa và ý
chí hy sinh của dân Việt.
Câu "Thù nước, lấy máu đào đem báo" là
một câu độc đáo.
Thế nào
là "thù nước"?
"Thù
nước" nhấn mạnh mối thù quốc gia, chứ không phải là mối thù cá nhân,
như phe địch giết thân nhân mình. Đó là mối thù hại đến tổ quốc. Lúc
bấy giờ, vào năm 1956, cộng sản Bắc Việt còn đang lo kinh tế ngoài
Bắc nên chưa tăng cường xâm lấn mìền Nam. Cộng sản vẫn có trong miền
Nam, khoảng chục ngàn cán bộ, nhưng hiểm họa cộng sản hoặc ngoại xâm
không nặng nề lắm. Vậy tại sao "thù nước"?
Trong
một giải thích, tác giả (nhân viên Đài phát thanh Sài Gòn) không có ý
tưởng rõ rệt ai là kẻ thù của đất nước lúc bấy giờ, mà chỉ là
lời kêu gọi tổng quát cho toàn dân báo thù cho bất cứ kẻ thù quốc
gia nào, kể cả những kẻ trong nước cướp nước dâng cho ngoại bang hoặc
quân xâm lăng ngoại bang. Tuy nhiên, giải thích đó không thỏa đáng vì
"thù nước" và "máu đào đem báo" hàm ý một mối thù rõ rệt. Do đó,
dưới một giải thích khác,"thù nước" là mối thù cộng sản Việt Minh
lừa đảo dân, cướp chính quyền của quốc gia Việt Nam vào tháng 8 năm
1945, đặt gông cùm cộng sản tàn ác lên dân Việt, và cúi đầu làm nô
lệ cho Tàu cộng và Liên Xô. Hành động phi pháp, cuộc thảm sát hơn
170.000 dân trong chiến dịch cải cách ruộng đất theo lệnh quan thầy Tàu
cộng của họ, và phí phạm hàng vạn binh lính trong các trận chống
Pháp nhất là trận Điện Biên Phủ, quả là một mối thù quốc gia. Người
miền Nam, lúc nào cũng coi người dân miền Bắc không cộng sản là anh
em, coi việc cộng sản đặt gông cùm lên đồng bào mình ngoài Bắc là
mối thù quốc gia.
Một
cách tiên tri, ý nghĩa của "thù nước" lại càng nổi bật rõ khi cộng
sản Bắc Việt xâm lăng và chiếm đóng miền Nam Việt Nam vào ngày 30
tháng 4 năm 1975. Từ đó, ngày 30 tháng 4 thường được gọi là ngày
"quốc hận" để cho thấy mối thù nhóm cầm quyền cộng sản nghe lệnh
quan thầy Tàu cộng, xé bỏ hiệp định, và xâm lăng miền Nam, dẫn đến
cảnh hàng triệu người bỏ xứ định cư trên các nước tự do, và hàng
trăm ngàn người bỏ mạng khi vượt biên hoặc bị hành quyết trong các
trại tù cải tạo. Mối thù nước này lại càng được nung nấu trong suốt
40 năm qua khi nhóm cầm quyền cộng sản lôi kéo đất nước oai hùng ngày
nào xuống bờ vực của ươn hèn và lụn bại, hủy hoại tài nguyên và
của cải đất nước qua hành động bán nước và tệ trạng tham nhũng, tiêu
diệt những tinh hoa đất nước qua những tuyên truyền và lừa đảo khiến
các thế hệ trẻ bị chôn vùi trong ngục tù tăm tối, và phạm biết bao
nhiêu tội ác với nhân dân và tổ quốc. Với ý nghĩa "thù nước" này,
"Công Dân" nên được coi là quốc ca của nước Việt Nam hiện nay hoặc ít
nhất là bài ca đại diện các phong trào đấu tranh giành tự do dân chủ
cho Việt Nam.
Người
dân Việt thuộc nòi giống Tiên Rồng phải biết giải tỏa nguy hiểm khi
có cơn nguy biến xảy ra cho đất nước; và người dân lúc nào cũng phải
vững tâm bền chí ("Nòi giống lúc biến phải cần giải nguy/ Người công dân
luôn vững bền tâm trí"). Người dân phải quyết chiến đấu hùng tráng
chống lại quân thù để tiếng tăm dân Việt được vang vang khắp nơi trên
thế giới cho đến ngàn năm ("Hùng tráng quyết chiến đấu làm cho khắp nơi/
Vang tiếng người nước Nam cho đến muôn đời!"). Lời kêu gọi cho tiếng tăm
nước Việt Nam vẻ vang khắp nơi trên thế giới và cả ngàn năm cho thấy
tinh thần quốc gia độc lập cao độ, không chịu lệ thuộc ngoại
bang.
Phiên
khúc chót là lời kêu gọi tha thiết đến toàn dân. Hỡi người dân Việt,
hãy nguyện hy sinh cho tổ quốc. Hãy cố gắng chiến đấu để đất nước
thoát cơn tàn phá vì kẻ thù, và để vẻ vang xứng danh ngàn năm là con
cháu Lạc Hồng ("Công dân ơi! Mau hiến thân dưới cờ!/ Công dân ơi! Mau làm
cho cõi bờ/ Thoát cơn tàn phá, vẻ vang nòi giống/ Xứng danh nghìn năm giòng
giống Lạc Hồng!"). Lời kêu gọi này là câu trả lời cho câu hỏi ngầm
người dân nên làm gì khi quốc gia đến ngày giải phóng đặt ra trong
phần đầu.
Nội dung
toàn bài kêu gọi lòng yêu nước của toàn dân đứng lên bảo vệ non sông
trong cơn nguy biến. Với lời kêu gọi hùng hồn tha thiết và đầy ý
nghĩa, "Công Dân" nên được dùng là ca khúc cho các phong trào đấu tranh
tự do dân chủ tại Việt Nam. Ngoài ra, như đã trình bày ở trên, "Công
Dân" nên là quốc ca của nước Việt Nam khi chế độ cộng sản không còn
hiện hữu.
D. "Tiếng Gọi Công Dân" có giai điệu trầm
bổng hùng tráng, tiết tấu dồn dập, và lời ca phù hợp, cách diễn tả
hữu hiệu kêu gọi lòng ái quốc và hy sinh cho tổ
quốc
Kelen
(2015, 107) cho rằng một nghịch lý của quốc ca là người hát và người
nghe thường quên ý nghĩa lời ca. "Chúng ta quên chúng ta đang hát gì;
chúng ta quên ý nghĩa của các chữ" (sđd.) Cái tác dụng mạnh mẽ
được tạo ra tự động (sđd., 108) vì người ta tham gia trong một
tình trạng biểu tượng chặt chẽ, thí dụ một nghi lễ tưởng niệm hoặc
một hoạt động thể thao quốc gia. Tôi không đồng ý hoàn toàn với ý
tưởng này, nhất là với "Công Dân." Một trong những lý do "Công Dân" là
bài quốc ca bất hủ là lời ca rất đáng nhớ và gây tác dụng mạnh mẽ.
Ít ai có thể quên được những từ ngữ mạnh như "giải phóng," "thây
phơi," "thù nước," "máu đào," "hiến thân dưới cờ" và ý nghĩa của
những chữ này. Ngoài ra, các khía cạnh âm nhạc của "Công Dân" cũng
đóng góp rất nhiều trong việc tạo tác dụng lớn lao trên khán
giả.
1.
Bài hát có giai điệu trầm bổng hào hùng và thánh thót, tiết tấu
thay đổi, giúp bài hát dễ hát và gây cảm xúc mạnh trên khán
giả:
Một
trong những đặc tính quan trọng cho quốc ca là bài hát phải dễ hát
để ai cũng có thể hát được. Quốc ca là bài hát cho toàn dân và không
phải là bài hát cho ca sĩ. Bản "Star-Spangled Banner," quốc ca của Hoa
Kỳ, có tiếng là khó hát, ngay cả cho ca sĩ chuyên nghiệp vì không ngân
nổi nốt nhạc cao hoặc quên lời nhạc (Wikipedia 2015d). Nhiều người nói
bài "Star-Spangled Banner" khó hát vì âm vực (khoảng cách giữa nốt
thấp nhất và nốt cao nhất trong bài) vượt quá mức của giọng người
thường, khoảng một quãng tám rưỡi (an octave and a half) (Xem, thí dụ
như, Klein 2013; Macko 2014). Tuy nhiên, âm vực một quãng tám rưỡi không
đến nỗi khó lắm. Lý do chính khiến người hát vấp ngã là giai điệu
thay đổi lung tung, nhảy lên nhảy xuống quá nhanh, như một "con cá giẫy
đành đạch trong thuyền chèo" (Klein 2013). Thí dụ, đoạn khó nhất
("were so gallantly streaming? And the rockets’ red glare") có
giai điệu thay đổi quá nhanh, từ nốt thấp nhất ("-ing" trong “streaming")
tới nốt cao nhất ("red"), một quãng tám (octave) rưỡi, trong vòng
khoảng bốn nốt đen với năm âm tiết (syllable). Người hát với giọng
thường khó mà thay đổi cao độ nhanh như vậy. Đoạn khó thứ nhì xảy ra
ở đoạn cuối ("the land of the free and the home of the brave"),
khi mà người hát đã mệt nhoài vì hết hơi nên không thể lên cao được ở
chữ "free" (Klein 2013). Như sẽ được trình bày sau, "Công Dân" có cùng âm
vực khoảng một quãng tám rưỡi, nhưng cách sắp đặt giai điệu không tạo
ra những khó khăn cho người hát như bài "Star-Spangled
Banner."
Một
khái niệm quan trọng trong giai điệu là chuyển động (movement, motion).
Chuyển động là sự tiến triển của các nốt nhạc đi với nhau. Có hai
loại chuyển động: liên kết (conjunct) và khác biệt (disjunct). Trong
chuyển động liên kết, giai điệu tiến triển từ một nốt sang nốt kế
tiếp từng nấc một (stepwise), tạo nên một nét nhẹ nhàng uyển chuyển.
Loại giai điệu này thường thích hợp cho cách diễn tả tình cảm hoặc
tả cảnh êm ả. Trong chuyển động khác biệt, giai điệu tiến triển từ
một nốt sang nốt kế tiếp qua bước nhảy (leaps), tạo nên vẻ mạnh mẽ
và "góc cạnh" (Mitchell).
"Công
Dân" có giai điệu phối hợp giữa chuyển động liên kết và chuyển động
khác biệt, giúp âm thanh có sắc thái trầm bổng hào hùng và thánh
thót. Âm điệu vì thế trở nên linh động và lôi cuốn, rất thích hợp cho
việc kêu gọi người dân hy sinh cho tổ quốc. Chuyển động liên kết xảy ra
trong câu và chuyển động khác biệt xảy ra giữa một câu và câu kế
tiếp. Thí dụ hai câu "Này Công Dân ơi! Quốc gia đến ngày giải phóng"
và "Đồng lòng cùng đi hy sinh tiếc gì thân sống" có tiến triển lên
xuống chậm chạp trong mỗi câu, nhưng có tiến triển đột ngột giữa hai
câu (từ "phóng" trong câu đầu tới "Đồng" trong câu kế), nghe
như hai lớp sóng vỗ lên nhau. Đặc biệt, từ câu "từ nay luôn vững
bền" tới câu "Dù cho phơi thây trên gươm giáo" có chuyển động
khác biệt và dấu lặng, giúp cho hòa âm được dễ dàng khi thay đổi
hoặc nhấn mạnh một nhạc cụ khác.
Tiết
tấu thay đổi, lúc thì nhanh dồn dập, lúc thì kéo dài tha thiết,
thích hợp cho lời kêu gọi toàn dân. Những nốt kéo dài cuối câu giúp
cho khúc đoạn có xác định rõ rệt, làm dễ dàng cho việc chuyển nhạc
cụ trong hòa âm đem lại nhịp điệu thay đổi và kích động. Thí dụ, hai
câu đầu có khí thế mạnh bạo dồn dập, nhưng chuyển tiếp giữa "tiếc
gì thân sống" và "Vì tương lai quốc dân" đem lại một sắc
thái trầm hùng thống thiết. Tất cả những chuyển động liên kết và
khác biệt này theo một cấu trúc khá cố định khiến các câu ca vang lên
như những đợt sóng nối tiếp nhau trên một con sông lớn cuồn cuộn chảy
hoặc sóng vỗ lên đá trên bờ biển, để tạo nên một khí thế mạnh dần
dẫn đến phiên khúc chót.
Phiên
khúc chót là phiên khúc độc đáo nhất và là cực điểm của bài hát.
Phiên khúc này bắt đầu bằng câu "Công Dân ơi! Mau hiến thân dưới
cờ!" có các nốt cao dẫn đến nốt cao nhất vào chữ "dưới" được kéo
dài để nhấn mạnh và tạo âm hưởng. Đoạn này khởi đầu sau một đoạn
được chấm dứt bằng nốt nhạc thấp nhất của bài và một dấu lặng đơn
("Vang tiếng người nước Nam cho đến muôn đời"), tạo nên một
chuyển động khác biệt, dứt khoát để chuẩn bị cho lời kêu gọi hoành
tráng với âm thanh vang vang cho các câu kế tiếp ("Công Dân ơi! Mau làm
cho cõi bờ/ Thoát cơn tàn phá, vẻ vang nòi giống") dẫn đến câu kết khởi
đầu bằng nốt cao nhất và xuống chậm dần cho đến kết thúc toàn bài
("Xứng danh nghìn năm giòng giống Lạc Hồng!").
Khác
với bài "Star-Spangled Banner" của Hoa Kỳ, đoạn giữa nốt thấp nhất và
nốt cao nhất được ngắt quãng bởi dấu lặng đơn, giúp người hát có
dịp nghỉ "lấy hơi." Ngoài ra, đoạn này được kéo dài qua nhiều nốt
với bảy âm tiết ("Công Dân ơi! Mau hiến thân dưới cờ!") giúp
người hát có thì giờ chuẩn bị để lên cao giọng ở âm tiế́t "dưới" và
kéo dài xuống âm tiết "cờ" sau đó. Với cách dùng dấu lặng và câu có
nhiều âm tiết, tác giả giữ được sắc thái "góc cạnh" của giai điệu
lên cao mà không tạo ra khó khăn cho người hát. "Tiếng Gọi Công Dân" do
đó rất dễ hát, không đòi hỏi người hát phải có giọng bao trùm âm
vực lớn, và cũng không đòi hỏi người hát phải luyện tập kỹ càng
trước khi hát.
Để hiểu và cảm nhận giai điệu trầm bổng, phối
hợp chuyển động liên kết và khác biệt, tiết tấu thay đổi giữa dồn
dập mạnh mẽ và nhẹ nhàng uyển chuyển, ta hãy nghe phần trình bày
nhạc hòa âm của dàn nhạc Ukraine, Ukrainia National Presidential Orchestra,
tại Kiev vào ngày 16 tháng 8 năm 2012, do sự hòa âm và phối khí của
nhạc sĩ Lê Văn Khoa (Buis 2012). Theo lời nhạc sĩ Lê Văn Khoa, phần trình
diễn này của dàn nhạc Ukrainia National Presidential Orchestra là một
trình diễn quốc ca VNCH xuất sắc nhất trong tất cả các trình diễn mà
ông biết.
2.
Lời ca phù hợp với nhạc điệu, có lối diễn tả có tính chất dân tộc,
và cách dùng chữ hữu hiệu cho một bài kêu gọi toàn dân đấu tranh vì
tổ quốc:
Tác giả
lời nhạc của "Công Dân," nhân viên Đài phát thanh Sài Gòn, chỉ giữ lại
vài từ ngữ trong phiên bản "Thanh Niên" và hầu như viết lại toàn bộ
lời nhạc cho thích hợp là quốc ca của chính thể VNCH. Vì được viết
cho một quốc ca, lời nhạc đượm màu sắc dân tộc và quốc gia. Tác giả
lời ca biết cách phối hợp các kỹ thuật diễn tả và dùng chữ hữu
hiệu, gây cảm xúc mạnh trên khán giả.
Ngay
trong nhan đề và rải rác khắp bài, chữ "công dân" rất thích hợp
cho lời kêu gọi toàn dân, và cũng tiện lợi vì là thanh không dấu,
thuận với âm điệu của nhạc, thay thế thẳng cho "thanh niên" hoặc "sinh
viên" cũng là các thanh không dấu.
Câu
"Này công dân ơi!" chất chứa niềm thương yêu cho đồng bào. Như đã
trình bày ở trên, câu này đi theo giai điệu có chuyển động liên kết,
tạo nên nét nhẹ nhàng êm ả, thích hợp cho lời nhắn nhủ tâm tình,
hoặc giải bày tâm sự. Chữ "ơi" (và các chữ khác như "à") là một chữ
độc đáo trong tiếng Việt, hầu như không thể dịch được sang ngoại ngữ.
Khi dùng với "anh," "em, "mình," v.v., chữ "ơi/à" bộc lộ một tình cảm
nhẹ nhàng, kín đáo, và thương yêu cố hữu của người Việt. Khi dùng
với các danh từ hoặc đại từ khác, chữ "ơi/à" có ý nghĩa tương tự
tuy với chút giảm thiểu về tình cảm. Chữ "này" là một chữ chứa
đựng niềm thân thiện, và cũng là một chữ độc đáo trong tiếng Việt
khi dùng như thán từ. "Này" và "ơi," do đó nói lên lời nhắn nhủ chứa
đựng tinh thần dân tộc, đồng bào, có tình thương yêu, và như là lời
của người dân nói với người dân, trong lúc giải bày tâm sự, phân trần,
hoặc biểu lộ cảm nghĩ cho một tình trạng nào đó.
Trong khi
"Này công dân ơi!" ở phiên khúc đầu nghe như lời nhắn nhủ tâm
tình, câu "Công dân ơi!" ở phiên khúc chót là lời kêu gọi, thúc
giục người dân thi hành nghĩa vụ công dân của mình bảo vệ non sông. Như
đã trình bày ở trên, lời kêu gọi này đi theo nhạc điệu hùng tráng,
với giai điệu bay bổng lên cao, tạo nên khí thế mãnh liệt và kích
động tâm thần khán giả. Lời ca và nhạc điệu (giai điệu, tiết tấu) do
đó rất phù hợp nhau, tạo nên tác dụng mạnh vào cảm xúc khán
giả.
Tác
gỉả dùng chữ rất hữu hiệu. Những hình ảnh cụ thể được "cho thấy"
bên cạnh những lời "kể" làm nổi bật ý tưởng và có tác dụng mạnh
trên khán giả. Thí dụ, "xông pha khói tên," "thây phơi trên gươm
giáo," "lấy máu đào," "hiến thân dưới cờ." Những nhóm chữ
này vẽ lên hình ảnh linh động, cụ thể, và gợi ý mạnh mẽ. Câu
"hiến thân dưới cờ" có nét độc đáo vì ngoài tác dụng cho thấy
hình ảnh cụ thể, nó còn là một ẩn dụ tuyệt vời cho lòng miệt mài
tận tụy dâng hiến cuộc đời ("hiến thân") cho tổ quốc ("dưới
cờ"). Hình ảnh lá cờ tượng trưng cho tổ quốc là một hình ảnh
thiêng liêng cao quý, và hành động "hiến thân dưới cờ" nói lên
lòng yêu nước vô bờ bến của người dân Việt Nam.
Tác giả
duy trì vần điệu cho lời ca trôi chảy, dễ nhớ. Một cách đặc sắc, tác
giả tận dụng thanh vận cho cách gieo vần: dùng vần trắc cho lời lẽ
mạnh bạo ("giải phóng/ thân sống," "gươm giáo/ đem báo") và
vần bằng cho lời lẽ nhẹ nhàng gợi tình cảm ("khói tên/ vững
bền," "khắp nơi/ muôn đời," "dưới cờ/ cõi bờ").
Tóm
lại, lời ca trong "Công Dân" phù hợp với nhạc điệu, có lối dùng chữ
hữu hiệu, mang nét dân tộc, gây tác dụng mạnh mẽ trên khán giả. Người
nghe hoặc người hát khó quên ý nghĩa của từ ngữ vì chính những từ
ngữ này tạo cảm xúc mạnh cho chính họ.
E. Kết Luận:
Ca khúc
"Tiếng Gọi Công Dân" kêu gọi toàn dân Việt Nam đứng lên đấu tranh và hy
sinh cho tổ quốc để gìn giữ bờ cõi. Đây không phải chỉ là một bài
quốc ca của VNCH mà nên được coi là bài quốc ca của toàn thể nước
Việt Nam. Toàn dân Việt Nam, từ Nam ra Bắc, nên hãnh diện vì bài quốc
ca hùng hồn, đầy màu sắc dân tộc, và tha thiết kêu gọi toàn dân hy
sinh cho tổ quốc. Lịch sử nguồn gốc ca khúc này cho thấy nước VNCH có
toàn quyền sở hữu bản nhạc, và nói lên tinh thần đồng bào dân tộc
của người miền Nam Việt Nam không tị hiềm việc tác gỉả điệu nhạc sau
đó trở thành một đảng viên cộng sản.
Với giai
điệu trầm bổng có các chuyển động thích hợp, tiết tấu thay đổi, và
lời ca có bố cục chặt chẽ, phù hợp với điệu nhạc, và diễn tả hữu
hiệu lời kêu gọi toàn dân trong tinh thần yêu nước thương nòi, "Tiếng
Gọi Công Dân" là một bản quốc ca bất hủ. Ca khúc "Tiếng Gọi Công Dân"
là biểu tượng độc đáo của toàn dân và quốc gia Việt Nam, và nên được
tôn trọng và duy trì mãi mãi trong và ngoài nước Việt Nam.
Lá cờ
vàng ba sọc đỏ đã phất phới bay cao trên nóc nhà Nguyễn Viết Dũng
tại Nghệ An. Chẳng bao lâu, ca khúc "Tiếng Gọi Công Dân" sẽ được hát
vang vang tại Sài Gòn, Hà Nội, Huế, hoặc một thành phố đông dân nào
đó tại Việt Nam.
CẢM TẠ
Tôi xin
có lời cám ơn các bạn trên trang mạng Dân Làm Báo đã có lời khích
lệ trong các bài về âm nhạc trước và giúp tôi có ý định viết bài
này, đặc biệt là lời yêu cầu của bạn Babui.
15/05/2015
Cao-Đắc Tuấn
______________________________________
Tài Liệu
Tham Khảo:
1. Bạch Diện
Thư Sinh. 2014. Tại sao Quốc Ca VNCH lại là một bài hát của một Đảng viên
CS? 26-1-2014.
http://tuxtini.com/2014/01/26/tai-sao-quoc-ca-vnch-lai-la-mot-bai-hat-cua-mot-dang-vien-cong-san/ (truy cập 2-5-2015).
2. Ban Kỹ
Thuật Khóa 10A. 2009. Chào quốc kỳ Việt Nam Cộng Hòa. 14-2-2009.
http://lhccshtd.org/LHCCSHTD_VT/NMH/NH/CQK/LHCCSHTD_VT_NMH_NH_CQK.htm (truy cập 11-5-2015).
3. Biển Nhớ.
Không rõ ngày. Bài Quốc Ca Việt Nam Cộng Hòa Ra Đời Như Thế Nào? Không
rõ ngày.
http://www.dactrung.com/Bai-bv-351Bai_Quoc_Ca_Viet_Nam_Cong_Hoa_Ra_doi_Nhu_The_Nao.aspx (truy cập 29-4-2015).
4. Buis,
Francois. 2012. The National Anthem of the Republic of Vietnam.
30-12-2012.
https://www.youtube.com/watch?v=w5Fvuhf3Q0g (truy cập 9-5-2015).
5. Buttinger,
Joseph. 1967. Vietnam: A Dragon Embattled. Volume I – From Colonialism to the
Vietminh. Frederick A. Praeger, New York, U.S.A.
6. Cao-Đắc,
Tuấn. 2014. Những lừa đảo lịch sử của Hồ Chí Minh và Đảng cộng
sản Việt Nam. 2-10-2014. http://danlambaovn.blogspot.com/2014/10/nhung-lua-ao-lich-su-cua-ho-chi-minh-va.html (truy cập 2-5-2015).
7.
ConHoiThoConDauTranh. 2011. Tiếng Gọi Thanh Niên. 2-3-2011.
https://www.youtube.com/watch?v=Cj73q8aTc2Y (truy cập 9-5-2015).
8. CUNY School
of Law. Không rõ ngày. IRAC/CRRACC Format. Không rõ ngày.
http://www.law.cuny.edu/legal-writing/students/irac-crracc/irac-crracc-1.html (truy cập 13-5-2015).
9. Hoàng Cơ
Thụy. 2002. Việt Sử Khảo Luận Cuốn 4, từ Đế quốc Việt Nam đến
trận Điện Biên Phủ (3-1945 / 7-5-1954). Nam Á (Sudasie). Paris,
France.
10. Kelen,
Christopher (Kit). 2015. Anthem Quality – National Songs – A theoretical
survey. Intellect, Bristol, U.K.
11. Klein,
Randy. 2013. The Star Spangled Banner Is Not A Song, or Is It? 3-7-2013.
http://www.americansongwriter.com/2013/07/star-spangled-banner-is-not-a-song-or-is-it/ (truy cập 9-5-2015).
12. Lê Hữu
Mục.1990. Hồ Chí Minh không phải là tác giả Ngục Trung Nhật Ký. Văn-Bút
Việt-Nam Hải Ngoại.
13. Macko,
Kathryn Mary. 2014. Why is the national anthem so hard to sing?
14-5-2014. http://americanhistory.si.edu/blog/2014/05/why-is-the-national-anthem-so-hard-to-sing.html (truy cập 9-5-2015).
14. Mallon,
Thomas. 1989. Stolen Words. Updated with a new afterword about the
Internet. Hartcourt, Inc., Florida, U.S.A.
15. Marr, David
G. 1995. Vietnam 1945 - The Quest for Power. University of California
Press, Berkeley and Los Angeles, California, U.S.A.
16. McFarlane,
Ben. 2014. The Law of Proprietary Estoppel. Oxford University Press,
Oxford, United Kingdom.
17. Mitchell,
Danlee. Không rõ ngày. Elements of Music - Part 3 and Part 4. Không rõ
ngày. http://trumpet.sdsu.edu/M345/Elements_of_Music3.html và
http://trumpet.sdsu.edu/M345/Elements_of_Music4.html (truy cập 9-5-2015).
18. Nguyễn Ngọc
Huy. Không rõ ngày. Quốc Kỳ và Quốc Ca Việt Nam. Không rõ ngày.
http://www.lyhuong.net/uc/index.php/covang/309-309 (truy cập 4-5-2015).
19. Nguyễn Lưu
Viên. Không rõ ngày. Những kỷ niệm với Bài Quốc Ca của VNCH. Không rõ
ngày.
http://namkyluctinh.org/a-lichsu/quochieuvn/nlvien-kyniemvoiquoccavnch.htm (truy cập 11-5-2015).
20. Pappas,
Theodore. 1998. Plagiarism and the Culture War: The Writings of Martin Luther
King, Jr., and Other Prominent Americans. Revised and expanded edition.
Hallberg Publishing Corporation, Florida, U.S.A.
21. Quinn-Judge,
Sophie. 2002. Ho Chi Minh: the Missing Years, 1919 – 1941. University of
California Press, California, U.S.A.
22. Stearns,
Laurie. 1999. Copy Wrong: Plagiarism, Process, Property, and the Law, in
“Perspectives on Plagiarism and Intellectual Property in a Postmodern
World,” Lise Buranen and Alice M. Roy (Eds.), 5-17. State University of New
York Press, New York, U.S.A.
23. Thụy Khuê.
2012. Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc (Nhân Văn Giai Phẩm
and the issue of Nguyễn Ái Quốc). Tiếng Quê Hương, Virginia,
U.S.A.
24. Trần Trọng
Kim. 1969. Một Cơn Gió Bụi. Vĩnh Sơn. Sài gòn. Việt
Nam.
25. Vu Ngu
Chieu. 1986. The other side of the 1945Vietnamese Revolution: The Empire of
Vietnam (March - August 1945). Journal of Asian Studies XLV, No. 2 (Feb.
1986), 293-328.
26. Wikipedia.
2015a. Quốc gia Việt Nam. 16-3-2015.
http://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%E1%BB%91c_gia_Vi%E1%BB%87t_Nam (truy cập 29-4-2015).
27. _________.
2015b. Thanh Niên Hành Khúc. Thay đổi chót: 9-4-2015.
http://vi.wikipedia.org/wiki/Thanh_ni%C3%AAn_h%C3%A0nh_kh%C3%BAc (truy cập 29-4-2015).
28. _________.
2015c. Thanh niên Tiền phong. Thay đổi chót: 1-3-2015.
http://vi.wikipedia.org/wiki/Thanh_ni%C3%AAn_Ti%E1%BB%81n_phong (truy cập 2-5-2015).
29. _________.
2015d. The Star-Spangled Banner. Thay đổi chót: 28-4-2015.
http://en.wikipedia.org/wiki/The_Star-Spangled_Banner (truy cập 29-4-2015).
30. _________.
2015e. Estoppel. 26-4-2015. http://en.wikipedia.org/wiki/Estoppel (truy cập 2-5-2015).
31. _________.
2015f. Tiến Quân Ca. 24-3-2015.
http://en.wikipedia.org/wiki/Ti%E1%BA%BFn_Qu%C3%A2n_Ca (truy cập 2-5-2015).
32. _________.
2015g. Plagiarism. Thay đổi chót: 26-4-2015.
http://en.wikipedia.org/wiki/Plagiarism (truy cập 3-5-2015).
33. _________.
2015h. Lưu Hữu Phước. Thay đổi chót: 1-4-2015.
http://vi.wikipedia.org/wiki/L%C6%B0u_H%E1%BB%AFu_Ph%C6%B0%E1%BB%9Bc (truy cập 3-5-2015).
34. _________.
2015i. IRAC. Thay đổi chót: 22-4-2015.
http://en.wikipedia.org/wiki/IRAC (truy cập 13-5-2015).
© 2015 Cao-Đắc
Tuấn
__._,_.___
Posted by: "Patrick Willay" <pwillay@orange.fr>
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét