Giao Chỉ - San Jose
Tàu Trường Xuân.
Tháng 4 năm 1975 Saigon / “ Một con tàu ngơ ngác ra khơi” (Nam Lộc) / Một thuyền trưởng tuyệt vọng / Gần 4 ngàn hành khách của định mệnh / Cuộc hành trình không bờ bến / Vỏn vẹn 3 ngày hải hành trôi nổi / Hai người tự tử thủy táng / Hai đứa trẻ ra đời / Con tàu kéo Song An, cứu tinh số 1 / Thương thuyền nhân đạo Ðan Mạch, cứu tinh số 2 / Sau cùng, tàu Trường Xuân không chìm được kéo về Hồng Kông với thi hài của người khách cuối cùng: Ðại tá Wong A Sáng, sư đoàn 5 bộ binh / Câu chuyện 40 năm trước được kể lại vào dịp ghi dấu 40 năm sau (1975-2015 ). / Và giới thiệu người con gái của biển Ðông: Chiêu Anh. (Shining Light).Chuyện này tôi kể đi kể lại. 10 năm trước. 5 năm trước và bây giờ. Trăm năm sau biết ai còn kể lại ...
* * *Có con tầu nằm trên bến đỗ...
Ông Trần Đình Trường, Chủ nhân
Vishipco Line
Ngày xưa tại Việt Nam gần như chỉ có 1 hãng thương thuyền hàng hải lớn nhất là Vishipco Line của chủ nhân Trần đình Trường. Ông Trường là nhà tư bản có nhiều tài sản và hotel tại Nữu Ước. Ông qua đời và dường như sắp giỗ lần thứ ba...
Thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy.
Một trong các thương thuyền của hãng là tàu Trường Xuân, vị thuyền trưởng lúc đó là ông Phạm Ngọc Lũy. Ông Lũy sinh quán tại Nam Ðịnh, ra đời năm 1919. Vào tháng 5-1975 thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy đã có 30 năm kinh nghiệm hàng hải.
Ngày 26 tháng 4 năm 1975, Trường Xuân đã xuống hàng
hoàn tất chuẩn bị chở sắt vụn đi Manila. Một chuyến đi vô thưởng vô phạt.
Thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy lúc đó 56 tuổi, Bắc kỳ di
cư, quyết không ở lại sống với cộng sản. Ông tìm đường ra đi bằng mọi giá. Ông
ước mong được dùng Trường Xuân chở đồng bào tỵ nạn. Trên đống sắt vụn của
Trường Xuân lần này phải là sinh mệnh của những con người. Ông cần có thủy thủ
đoàn và ông cần cả hành khách. Trải qua bao nhiêu là gian nan phức tạp vào tuần
lễ cuối cùng của cái tháng 4 đen oan nghiệt. Sau cùng tới 29 tháng 4-1975 thuyền
trưởng Phạm Ngọc Lũy viết lên tàu hàng chữ định mệnh. Tàu Trường Xuân khởi hành
12 giờ trưa 30/4/75.
VISHIPCO LINE
TRƯỜNG XUÂN RA KHƠI
Thông thường thủy thủ đoàn gần 30 người nhưng ông chỉ
có vỏn vẹn 5 người. Có lẽ ông cần chừng 300 hay 400 hành khách, nhưng chưa có
người nào. Con tàu Trường Xuân ngủ yên trên bến Saigon giữa đêm 29 rạng ngày 30
tháng 4-1975.
Saigon hấp hối
Tại Saigon mặt trận Long Khánh đã tan vỡ, tất cả 3 quân khu đều nằm trong tay giặc. Chỉ còn miền tây vẫn yên tĩnh. Sáu sư đoàn cộng quân 3 mặt tiến về Saigon. Các đơn vị pháo của Bắc quân đã chuẩn bị trận địa pháo vào thủ đô. Các tiền sát viên chỉ điểm cộng sản đã có mặt tại các vị trí quân sự.
Saigon hấp hối
Tại Saigon mặt trận Long Khánh đã tan vỡ, tất cả 3 quân khu đều nằm trong tay giặc. Chỉ còn miền tây vẫn yên tĩnh. Sáu sư đoàn cộng quân 3 mặt tiến về Saigon. Các đơn vị pháo của Bắc quân đã chuẩn bị trận địa pháo vào thủ đô. Các tiền sát viên chỉ điểm cộng sản đã có mặt tại các vị trí quân sự.
Phi cơ trực thăng Hoa Kỳ đang bay di tản những phi vụ
cuối cùng. Nội các mới của Việt Nam Cộng Hòa họp bàn về việc bỏ súng và bàn
giao.
Ðài phát thanh Saigon chuẩn bị đọc những lời tuyên bố
đau thương của tổng thống Dương văn Minh gửi người anh em phía bên kia, xin mời
vào nói chuyện.
Thủ tướng Vũ văn Mẫu kêu gọi người anh em đồng minh
Hoa Kỳ phía bên này, xin vui lòng ra đi.
Giữa mùa hè chói chang, radio của quân đội Hoa Kỳ
chơi bài Tuyết Trắng, một ám hiệu kêu gọi ra đi lúc trái gió trở trời. Ðài quân
đội Việt Nam Cộng Hòa hát nhạc quân hành trong tuyệt vọng. Ðó là Saigon của đêm
29 rạng ngày 30 tháng 4-1975. Con tầu Trường Xuân bụng đầy sắt vụn vẫn nằm ngủ
yên trên bến sông Khánh Hội. Lửa bắt đầu bốc cháy bên kho đạn Thành Tuy
Hạ.
Cô gái thuyền nhân trong bụng mẹ
Cũng vào cái tuần lễ sau cùng của tháng 4 nghiệt ngã đó, có bà sản phụ vào nhà thương ngày 27/4/1975 để chuẩn bị sanh đứa con thứ hai. Bà dược sĩ trẻ tuổi có mang 9 tháng 10 ngày. Ðứa bé sẽ ra đời bất cứ lúc nào. Bây giờ tính sao đây. Xin mổ để sanh sớm rồi chạy, hay là tìm đường chạy rồi muốn ra sao thì ra. Chợt có được giấy phép di tản bèn bỏ nhà thương vào tòa đại sứ Mỹ. Nhưng rồi máy bay chuyến cuối cùng không trở lại. Cộng sản vào đến cửa ngõ Saigon. Gia đình bà tìm đường xuống Khánh Hội. Tìm ghe chạy ra tàu Trường Xuân sáng 30 tháng 4-75. Bà bầu cùng gia đình, mẹ già, con trai nhỏ 2 tuổi leo giây lên Trường Xuân.
Cô gái thuyền nhân trong bụng mẹ
Cũng vào cái tuần lễ sau cùng của tháng 4 nghiệt ngã đó, có bà sản phụ vào nhà thương ngày 27/4/1975 để chuẩn bị sanh đứa con thứ hai. Bà dược sĩ trẻ tuổi có mang 9 tháng 10 ngày. Ðứa bé sẽ ra đời bất cứ lúc nào. Bây giờ tính sao đây. Xin mổ để sanh sớm rồi chạy, hay là tìm đường chạy rồi muốn ra sao thì ra. Chợt có được giấy phép di tản bèn bỏ nhà thương vào tòa đại sứ Mỹ. Nhưng rồi máy bay chuyến cuối cùng không trở lại. Cộng sản vào đến cửa ngõ Saigon. Gia đình bà tìm đường xuống Khánh Hội. Tìm ghe chạy ra tàu Trường Xuân sáng 30 tháng 4-75. Bà bầu cùng gia đình, mẹ già, con trai nhỏ 2 tuổi leo giây lên Trường Xuân.
Gia đình bà dược sĩ Saigon, mới ra trường năm 1972 đã
thành những người khách không mời của chuyến hải hành vô định trên tàu Trường
Xuân, ra đi xế chiều 30 tháng 4-1975.
Ðứa bé gái hoài thai từ Saigon tự do, nhưng gan lì nằm trong bụng mẹ hay sợ súng đạn nên không chịu chào đời. Cho đến khi Trường Xuân ra đến hải phận quốc tế. Ðứa bé mới chịu ra đời. Ðó là câu chuyện 40 năm trước viết lại cho ngày kỷ niệm 40 năm sau.
Ðứa bé gái hoài thai từ Saigon tự do, nhưng gan lì nằm trong bụng mẹ hay sợ súng đạn nên không chịu chào đời. Cho đến khi Trường Xuân ra đến hải phận quốc tế. Ðứa bé mới chịu ra đời. Ðó là câu chuyện 40 năm trước viết lại cho ngày kỷ niệm 40 năm sau.
Trở lại với Trường
Xuân
Vào chiều 30 tháng 4-1975, con tàu Trường Xuân sau khi đã thành lập xong 1 thủy thủ đoàn tình nguyện và có gần 4,000 hành khách ngẫu nhiên đã lên đường hết sức vất vả trong điều kiện kỹ thuật tồi tệ và bị phá hoại mọi bề.
Vào chiều 30 tháng 4-1975, con tàu Trường Xuân sau khi đã thành lập xong 1 thủy thủ đoàn tình nguyện và có gần 4,000 hành khách ngẫu nhiên đã lên đường hết sức vất vả trong điều kiện kỹ thuật tồi tệ và bị phá hoại mọi bề.
TẦU TRƯỜNG XUÂN TRƯỚC KHI RỜI KHO NĂM SÀI GÒN
Hành khách không vé của Trường Xuân gồm đủ tất cả hai
ba thế hệ Việt Nam Cộng Hòa, mọi thành phần, mọi giai cấp, mọi hoàn cảnh. Ðủ cả
ba ngành lập, hành và tư pháp. Có mặt sĩ nông công thương binh. Không hề thiếu
nam phụ lão ấu. Các nghệ sĩ sáng tác và nghệ sĩ trình diễn. Chuyến hải hành vào
chân trời vô định với một ông thuyền trưởng nhân đạo và hết sức kiên định. Những
tay phụ tá tình nguyện rất xuất sắc và sau cùng định mệnh đã đưa 3,628 con người
đi tìm tự do đến được bến tự do.
TẦU KÉO SONG AN
Thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy đã nói rằng Trường Xuân
sẽ không thoát được nếu không có Song An.
Song An là ai ?
Ðây chỉ là tên con tàu kéo nhỏ bé đang trên đường từ
Vũng Tàu về cảng Saigon. Ông già Trường Xuân đang mắc cạn bèn túm lấy đứa
bé Song An đòi nó kéo. Vậy mà nó kéo được. Ra đến hải phận, cho đến lúc ông
già Trường Xuân tự chạy được, bác cháu mới chia tay.
Lẽ dĩ nhiên câu chuyện hải hành của đêm dài 30 tháng
4-75 không giản dị như thế ! Với lửa cháy ngập trời Thành Tuy Hạ và tiếng súng
đuổi theo trên sông Lòng Tào, đêm hôm đó là đêm dài nhất của cuộc đời Trường
Xuân.
Khi ông già Trường Xuân từ giã cậu bé Song An
trên đại dương, khách Trường Xuân góp tiền cho Song An trở
về Saigon. Hai, ba bị tiền hàng chục triệu đồng Việt Nam đưa qua. Lái tàu Song
An nói 1 câu kỳ diệu: “ Thôi! tiền nhiều quá, đủ rồi. Ðừng
đưa nữa “.
Trong đời chúng ta hiếm khi nào nghe được những lời
nói đó. Với tâm tình như vậy, tàu kéo Song An từ giã Trường Xuân. Tiếng còi tạm
biệt trên trùng khơi nghe những nghẹn ngào. Có vài hành khách bỏ Trường Xuân
nhẩy theo Song An trở về Saigon.
Trên 3,600 khách Trường Xuân ngó theo Song An nhỏ dần
trên đường trở lại quê hương. Khóe miệng chợt thấy vị mặn. Ðây là nước biển sóng
đánh bên thành tàu hay là nước mắt biệt ly. Rồi con tàu Trường Xuân chạy 1 mình.
Gần 4,000 hành khách. Không đủ nước, không có thức ăn. Máy móc trục trặc. Nước
tràn vào khoang tàu. Sắt vụn vô tri dưới hầm tầu. Con người tuyệt vọng ở trên
boong.Hai người tự tử được thủy táng. Việt cộng phá hoại chỗ này. Máy tàu hư
hỏng chỗ kia. Con tàu vô định có thể sẽ là quan tài nổi. Một hỏa diệm sơn chưa
nổ. Các tin tức bi quan được lệnh của thuyền trưởng phải dấu kín. Trường Xuân
nín thở, ỳ ạch tiếp tục chạy...
Chợt có tiếng kêu : “Có người rớt xuống biển.”. Ông
thuyền trưởng Nam Ðịnh đứng im trên đài chỉ huy lặng người bất động. Nửa giờ
trôi qua như 1 thế kỷ. Captain Phạm ngọc Lũy sau cùng ra lệnh quay tàu lại vớt
người. Một quyết định vô vọng. Hành khách nói. Một quyết định sai lầm. Hành
khách nói. Hy sinh 4,000 người để cứu 1 người là nhầm lẫn. Hành khách nói.
Captain điên rồi. Tại sao ? Thuyền trưởng sau này trả lời. Tìm vớt 1 người để
cứu 4,000 người. Như vậy có thể hiểu rằng con tàu Trường Xuân đang là một hỏa
diệm sơn sẵn sàng phun lửa nổi loạn. Hành động bình tĩnh quay tầu lại tìm 1
người là bài học nhân đạo cho mọi người và giữ cho được sự bình an của toàn thể
con tàu.
Có thể Thượng Ðế trên cao đã nhìn thấy chuyện vớt
người giửa biển của Trường Xuân nên đã đem lại vị cứu tinh số hai. Ðó là con tàu
Ðan Mạch. Tiếng Trường Xuân kêu cứu vọng trên đại dương. Tàu Ðan Mạch trên đường
viễn du hỏi rằng thế đã kêu hạm đội Mỹ chưa? Trả lời : “Có số đâu mà
kêu.” Ðan Mạch thở dài. “Thôi chờ đó, chúng
tôi sẽ đến tiếp tế và rước chừng 1,500 đàn bà, trẻ
con.”
Quang
cảnh tầu TRƯỜNG XUÂN nhìn từ tầu CLARA MAERSK (ĐAN MẠCH)
Leo
thang dây và lưới để sang tầu CLARA MAERSK
Ra đời
giữa trời biển mênh mông
Trước đó vài giờ đồng hồ, sáng ngày 2/5/75, bà dược sĩ họ Bùi đau đẻ. Gần 4,000 con người phải chừa ra 1 chỗ trống cho sản phụ. Ðứa bé gái ra đời khoảng 2 giờ sáng. Con bé gốc Saigon Việt Nam, nằm trong bụng mẹ trên Trường Xuân, được kéo đi bởi Song An. Sanh ra giữa biển Ðông, Thái bình dương. Không sữa, không nước, không cơm, không cháo. Một người dúi vào tay sản phụ miếng cam thảo. Bà nhai ra rồi lấy nước miếng bôi vào miệng con gái. Tiếng khóc chào đời vang trên biển rộng mênh mông. Một thanh niên nhấc bổng đứa bé đưa qua tàu Ðan Mạch. Bà mẹ nhìn theo bóng con vươn lên trời xanh, nước mắt một lần nữa lại như vị mặn của biển khơi. Khai sanh của cháu đề ngày 2/5/1975 trên tàu Ðan Mạch, tên cháu là Chiêu Anh.
Trước đó vài giờ đồng hồ, sáng ngày 2/5/75, bà dược sĩ họ Bùi đau đẻ. Gần 4,000 con người phải chừa ra 1 chỗ trống cho sản phụ. Ðứa bé gái ra đời khoảng 2 giờ sáng. Con bé gốc Saigon Việt Nam, nằm trong bụng mẹ trên Trường Xuân, được kéo đi bởi Song An. Sanh ra giữa biển Ðông, Thái bình dương. Không sữa, không nước, không cơm, không cháo. Một người dúi vào tay sản phụ miếng cam thảo. Bà nhai ra rồi lấy nước miếng bôi vào miệng con gái. Tiếng khóc chào đời vang trên biển rộng mênh mông. Một thanh niên nhấc bổng đứa bé đưa qua tàu Ðan Mạch. Bà mẹ nhìn theo bóng con vươn lên trời xanh, nước mắt một lần nữa lại như vị mặn của biển khơi. Khai sanh của cháu đề ngày 2/5/1975 trên tàu Ðan Mạch, tên cháu là Chiêu Anh.
Như vậy là tổng cộng ba ngàn sáu trăm hai mươi tám (3.628) người đến bến tự do, bây giờ định cư ở bốn phương trời. Một thế hệ Trường Xuân ra đời và nối tiếp.
Thoạt tiên tất cả được đưa về tạm trú ở Hồng Kông.
Nhà chức trách Hương Cảng hứa hẹn sẽ không trả về Việt
Nam.
Đồng bào đang lảnh đồ cứu trợ tại trại Sai Kung, Hong
Kong.
Lãnh cơm có những người lính Népal, thuộc quân đội
Hoàng Gia Anh quốc, kiểm soát
Trước khi rời con tàu, thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy đi
thanh sát một vòng. Hình ảnh cảm động sau cùng là một người đàn ông mệt mỏi cúi
xuống cõng bà mẹ già tê liệt. Trên khoang tàu mênh mông hiện chỉ còn là bãi rác.
Một người đàn ông ạch đụi cõng mẹ qua tàu Ðan Mạch, quả thực là hình ảnh hết sức
ngậm ngùi. Ðó là ông thiếu tá nhẩy dù Phan Huy Hoàng, sau này đưa mẹ về định cư
tại Texas.
Khi vị thuyền trưởng rời tàu Trường Xuân thì nước đã
tràn vào khoang máy. Vẫn còn dưới hầm, thân xác 1 ông già sẽ thủy táng theo con
tàu. Nhưng sau này được biết, khi người lên hết tàu Ðan Mạch, Trường Xuân ngập
nước nhưng không chìm. Hai tháng sau được kéo về Hồng Kông, đi theo hành khách
của nó. Con rể của ông già nằm trên Trường Xuân đã nhận xác cha. Di hài vị dân
biểu gốc Nùng của Việt Nam Cộng Hòa: Ðại tá Wong A Sáng của sư đoàn 5 bộ binh,
một thời đồn trú tại Sông Mao. Con người và con tàu, cả hai đều làm xong nhiệm
vụ cuối cùng cho hai chữ tự do.
Một thế hệ tương lai
Bà dược sĩ trẻ tuổi họ Bùi bây giờ định cư tại Montreal, Canada và học lại nghề cũ từ 1977. Pharmacie BUI tại Gia nã Ðại có từ ngày đó. Ðứa bé gái Chiêu Anh ra đời giữa Thái Bình Dương tháng 5-75, hai mươi tư năm sau vẽ 1 bức tranh họa cảnh tàu Trường Xuân nộp cho trường đại học Parkson school of Design, New York. Cô được nhận vào học và tốt nghiệp danh dự với huy chương vàng về ngành sáng tạo y phục thời trang. Hiện Chiêu Anh còn độc thân và làm việc tại San Francisco Hoa Kỳ.
Một thế hệ tương lai
Bà dược sĩ trẻ tuổi họ Bùi bây giờ định cư tại Montreal, Canada và học lại nghề cũ từ 1977. Pharmacie BUI tại Gia nã Ðại có từ ngày đó. Ðứa bé gái Chiêu Anh ra đời giữa Thái Bình Dương tháng 5-75, hai mươi tư năm sau vẽ 1 bức tranh họa cảnh tàu Trường Xuân nộp cho trường đại học Parkson school of Design, New York. Cô được nhận vào học và tốt nghiệp danh dự với huy chương vàng về ngành sáng tạo y phục thời trang. Hiện Chiêu Anh còn độc thân và làm việc tại San Francisco Hoa Kỳ.
Trong một bản văn tự thuật bằng Anh ngữ, Chiêu Anh kể
chuyện mình như sau:
“Con là
Trường Xuân Baby. Từ biển cả, con là một thuyền nhân sống
xót. Khi Sài Gòn thất thủ, cha mẹ chạy xuống tầu Trường Xuân của thuyền trưởng
Phạm Ngọc Lũy. Trong cái đêm dài sâu thẳm, vào lúc 2 giờ sáng 2 tháng 5-75 con
sanh ra đời. Ðó là giây phút của hãi hùng
và hy vọng. Ðời
con khởi sự vất vả. Mắt hài nhi không mở. Xương quai bị gẫy, vai bị cụp. Mẹ đói
không có sữa cho con. Vị cam thảo ngọt bôi vào miệng sơ sinh vẫn còn ghi nhận
cho đến ngày nay.
Tầu Danish của thuyền trưởng Ðan Mạch Anton Martin
Olsen đã cứu gia đình con và đưa vào nhà thương Anh Quốc tại Hồng Kông. Khai
sanh của con với chứng chỉ công dân Denmark trên tầu MS Clara Maersk. Vì những giấy tờ này, tòa
đại sứ Ðan Mạch lo cho cả gia đình định cư tại Canada trong 21 ngày. Con đã tiếp tục sống trong những ngày thơ ấu khó khăn vất vả như những gia đình tỵ
nạn khác. Cùng với người anh hơn con 2 tuổi, chúng con cố sức học hành để xây
dựng tương lai. Con xin được học bổng để theo ngành sáng tạo thời trang và tốt
nghiệp 1998 với bằng danh dự tại đại học hàng đầu New York. Con bắt đầu làm việc cho các hãng thời trang nổi tiếng tại Paris, New
York và San Francisco. Con đã có dịp đi đến
tất cả các đô thị lớn nhỏ từ Âu châu, Á châu, Mỹ châu trong thế giới của ngành
sáng tạo thời trang. Nhưng con luôn luôn nhớ rằng mãi mãi vẫn là một thuyền nhân
sống xót, một Trường Xuân
Baby.”
40 năm nhìn lại
Kể từ tháng 4-1975 cho đến tháng 4-2015 chúng ta có 40 năm nhìn lại. Nhưng 5 năm trước chúng tôi đã chọn nhiều nhân vật hay sự kiện để giới thiệu. Trên sân khấu CPA của San Jose tháng 5-2010, người đầu tiên được giới thiệu sẽ là cô Chiêu Anh, Shining Light.
TẦU TRƯỜNG XUÂN - CÔ
CHIÊU ANH - THUYỀN TRƯỞNG PHẠM NGỌC
LŨY
Cô sẽ hiện diện với thân mẫu từ Canada, với bác
thuyền trưởng Phạm ngọc Lũy 91 tuổi, với hình ảnh của Trường Xuân, của Song An,
và của con tàu Ðan Mạch.
Khởi đầu từ năm 75 trở đi, qua 76, 77 cho đến 2009 và 2010. Lịch sử giở lại từng trang. Bi thảm, hào hùng, tuyệt vọng và hy vọng. Nhưng mở đầu vẫn là chuyến hải hành ngắn ngủi nhưng hết sức đặc thù. Bây giờ lại nhắc lại. Mãi mãi không quên
Chuyến đi của Trường Xuân
Khởi đầu từ năm 75 trở đi, qua 76, 77 cho đến 2009 và 2010. Lịch sử giở lại từng trang. Bi thảm, hào hùng, tuyệt vọng và hy vọng. Nhưng mở đầu vẫn là chuyến hải hành ngắn ngủi nhưng hết sức đặc thù. Bây giờ lại nhắc lại. Mãi mãi không quên
Chuyến đi của Trường Xuân
Trường Xuân ơi, Trường Xuân! Saigon tháng 4 đen. Bốn
ngàn người vượt biển, Bỏ đất nước điêu linh. Trên con tàu vô định.
Trường Xuân ơi, Trường Xuân! 40 năm nhìn lại. Xem ai còn ai
mất, Lệ tuôn khắp dặm trường. Bốn phương trời thế giới. Trường Xuân ơi, Trường
Xuân! Gần bốn ngàn người sống.Với ba mạng tử vong. 2 đứa bé lọt lòng. Giữa mênh
mông trời biển.
Trường Xuân ơi, Trường Xuân! Một thế kỷ vừa qua...Tương lai rồi
sáng chói. Chuyện này cần kể lại.
Trường Xuân ơi Trường Xuân! Ngàn năm còn nhớ
mãi...
Nhân
dịp 40 năm, tôi viết chuyện
Trường Xuân. Phần tiếp theo là
cụ Lũy kể
lại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét